-
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Sáng hôm sau, cậu Xuân thức dậy, nghe sốp-phơ đã sửa xe xong rồi, bây giờ máy có lửa đủ, hết sợ trục trặc nữa, thì cậu liền thay đồ sửa soạn đi Cà Mau.
Ông Từ Tệt thấy vậy mới hỏi:
– Cháu đi đâu mà sửa soạn thay đồ?
– Thưa, đi Cà Mau.
– Hồi hôm qua chú thím nói như vậy mà cháu không chịu đổi ý, cứ quyết bán đất hay sao, nên đi Cà Mau.
– Cháu tính nếu không bán đất, thì cháu không thể học nữa được.
– Cháu có cái trí muốn học cho cao thì tốt lắm. Thôi thì cháu cho thím cháu mướn đất đó, mỗi năm thím đóng cho cháu ba ngàn đồng bạc đặng cháu ăn học cũng được, cần gì phải bán.
– Cháu nghĩ làm như vậy không tiện.
– Sao mà không tiện? Vậy chớ họ mua bao nhiêu mà cháu ham lợi, nên bươn bả bán gấp vậy.
– Thưa, ông Cả Bình lên kiếm cháu mà trả giá 30 ngàn, cháu đòi 50 ngàn. Ồng trả thêm 5 ngàn nữa là 35 ngàn. Vì bán giá đó thấp hơn giá mua hồi trước thì bán làm sao được. Cháu tính xuống nói với ổng nếu thiệt bụng ổng muốn mua, thì ít nào 40 ngàn cháu mới bán.
– Thiệt cháu định bán và cháu dứt giá 40 ngàn hay sao?
– Dạ.
Ông Từ Tệt châu mày nghĩ một hồi lâu rồi thở dài mà nói:
– Chú không bằng lòng cho cháu bán đất. Sự nghiệp của anh Hội đồng bây giờ chỉ còn có sở đất đó mà thôi. Cháu bán rồi còn gì nữa đâu! Nếu cháu không nghe lời chú, cháu nhứt định bán, thôi thì chú mua. Cháu bán cho người ta giá nào thì chú mua giá đó. Thà là chú mua, chớ chú không đành để đất ấy về tay người khác.
Xuân chúm chím cười mà đáp:
– Như chú muốn mua, thì cháu phải bán cho chú, chớ có lẽ nào cháu bán cho thiên hạ.
– Không phải chú muốn mua. Chú nói nếu cháu quyết bán thì chú tranh mà mua, vì chú không chịu để lọt vào tay người khác. Còn như cháu để mà làm, thì chú sẽ giúp cho cháu đặng khai phá cho thành điền, chớ chú mua làm chi.
– Cháu nhứt định bán, bởi vì cháu tính đi học nhiều năm nữa, không thể để được.
– Cháu nói như vậy thì chú mua. Cháu định 40 ngàn thì chú mua 40 ngàn, chú không bớt.
– Còn 4 tuần lễ thì tới khai trường, cháu phải đi học. Vậy nếu chú mua thì chú làm giấy tờ cho gấp gấp, chớ để khai trường e bất tiện cho cháu.
– Được, cháu muốn làm giấy tờ gấp thì làm. Mình vô nói với với ông Lục sự Nô-te , ổng làm giấy tờ trong mấy bữa thì xong. Mà cháu có đem bằng khoán đất đi theo hay không?
– Thưa, có đủ hết, có bằng khoán, có bản đồ. Mà cháu cũng sao lục khai tử của ba cháu và có lập tờ tông chi sẵn sàng rành rẽ nữa.
– Được lắm. Cha chả, mà cháu còn nhỏ, không biết Nô-te họ có nài phải có trưởng tộc đứng hay không?
– Thưa, không. Cháu đúng 21 tuổi rồi, cần gì trưởng tộc. Cháu cũng có đem khai sanh của cháu theo trong va ly.
– Cháu sắp đặt thiệt sẵn sàng, rành rẽ. Thế thì cháu đã quyết bán đất đã lâu rồi hay sao chớ?
– Thưa không. Hôm ông Cả Bình lên nói rồi cháu mới lục giấy tờ đó.
– Anh Hội đồng ảnh chần chờ lắm. Còn cháu bây giờ lại mau mắn quá. Cháu không giống ảnh chỗ đó.
– Tánh ngày xưa khác hơn tánh ngày nay. Hạng thanh niên bây giờ thảy hết đều cương quyết, làm việc gì cũng vậy, hễ nhứt định là làm liền, không chịu dụ dự.
– Bởi vậy nên thường hay lầm.
– Thưa chú, mà nhiều khi khỏi mất cơ hội tốt.
Bà Tệt biểu gia dịch dọn đồ ăn lót lòng. Xuân được như ý muốn, mà khỏi đi Cà Mau mà bàn về sự bán đất với ông Cả Bình thì cậu vui vẻ ngồi ăn mà cứ giỡn với cô Quyên.
Ăn uống xong rồi, Xuân mới lấy giấy tờ ra xe hơi mà đi với ông Từ Tệt vô tòa cậy ông Lục sự Nô-te lập tờ bán đất. Thấy mối hậu, ông Lục sự Nô-te tiếp rất hậu, xem xét giấy tờ rồi chịu lãnh làm liền và hứa sẽ làm mau mau.
Chừng về nhà, ông Từ Tệt mời luôn Xuân ở dưới nầy đợi bữa nào giấy tờ làm xong thì ký tên liền cho khỏi trễ. Bà Tệt với cô Quyên cũng ân cần cầm ở lại, nói rằng nhà đã có sẵn người coi, nên không phải cần về làm chi. Xuân chịu ở, mới sai sốp-phơ đi xe đò về Bình Thủy lấy thêm áo quần và lấy luôn cái máy chụp hình đem xuống cho cậu.
Cô Quyên là con cưng nhứt trong nhà nên trừ ra đi học mới đi chơi bời với chị em trong trường, còn về nhà cô không có bậu bạn nào hết, vì Triều mắc học trên Sài Gòn, không ở nhà. Nay nghe Xuân chịu ở chơi, thì cô mừng quá cô cứ đeo theo một bên Xuân, cậy Xuân dạy cô học, rủ Xuân ra vườn chơi.
Trưa bữa sau anh sốp-phơ đem đồ xuống. Xuân lấy máy chụp hình ra mà chùi, tính chiều mát mẻ đi kiếm cảnh đẹp mà chụp lấy hình để dành chơi.
Cô Quyên đòi đi theo Xuân đặng coi chụp hình. Vợ chồng ông Tư Tệt cưng con, không muốn làm cho con buồn, lại nghĩ con vẫn còn khờ dại, còn Xuân như con cháu trong nhà, một thể với Triều, bởi vậy ông bà đều chịu cho đi, song căn dặn con phải mặc quần áo cho tử tế và lên xe ngồi tề chỉnh, chẳng nên liến xáo .
Đến xế mát, Xuân thay y phục, mặc bộ đồ Tây, Quyên mặc áo quần toàn lụa trắng cũng mới, tóc chải láng mướt, chưn mang giày thêu, hai trẻ vui vẻ dắt nhau lên xe hơi. Vì xe có hai chỗ ngồi nên Xuân biểu sốp-phơ ở nhà, cậu cầm tay bánh để Quyên ngồi một bên, mượn Quyên ôm dùm cái máy chụp hình, rồi mới mở máy cho xe chạy ra lộ. Quyên đắc ý, liếc mắt ngó Xuân, miệng chúm chím cười. Vợ chồng ông Từ Tệt đứng bên thềm ngó theo, tuy mặt tươi cười, song lòng có chút lo ngại.
Xuân không thông thạo đường sá tỉnh Bạc Liêu, nên cậu vào chợ rồi cậu bợ ngợ không biết phải đi đường nào mới có cảnh đẹp mà lấy hình. Cậu day qua hỏi Quyên thì cô ú ớ không biết đường nào mà chỉ. Cậu đi nhầu, té ra nhằm đường qua Hưng Hội.
Ra khỏi châu thành thì hai bên đường ruộng lúa cấy đã hơn một tháng, lúa nở bụi tốt tươi, lá phơi màu xanh lét, trải ngay trước mặt là một bức tranh thiên nhiên gồm đủ cảnh quảng đại và cảnh u nhàn.
Cô Quyên có tánh cũng liến xáo, song cô có lòng đa cảm, bởi vậy thấy cảnh đẹp cô chẳng khỏi động lòng. Tiếc vì cô không đủ lời để tả cảnh tả tình, bởi vậy cô chỉ nói với giọng rất thiệt thà rằng:
– Lúa coi xanh tốt quá, anh Xuân hả?
Xuân không hiểu ý cô, nên gật đầu mà thôi, không nói tiếng chi hết, làm cho cô thất vọng ngồi buồn hiu.
Xe chạy một hồi thì tới xóm Thổ , kêu là Sóc Đồn.
Xuân thấy dựa trên đường có một cảnh chùa Thổ, chùa tuy không tốt lắm song chung quanh có cây cao tàn lớn, làm cho cảnh xem rất huyền ảo, đáng lấy hình dành chơi. Cậu ngừng xe bên đường mà leo xuống.
Cô Quyên xách máy chụp hình cũng leo xuống, rồi hai trẻ song song dắt nhau đi trên lộ, lựa chỗ thuận tiện mà chụp hình.
Xuân muốn lấy cái chùa và lấy luôn cho được vài cây lớn vào trong hình nên đứng lại mà nhắm. Quyên trao cái máy cho cậu, rồi đứng khít một bên, tay vịn vai cậu, mắt dòm theo chỗ cậu nhắm. Xuân chụp cái chùa rồi day qua ngó Quyên và cười mà hỏi:
– Qua muốn em lại đứng trước lùm cây kia đặng qua chụp mà lấy hình của em. Em chịu không?
– É! Không dám đâu…
– Sao mà không dám?
– Tôi sợ lắm.
– Có qua đây mà sợ cái giống gì?
– Anh đứng với tôi thì tôi mới chụp.
– Qua mắc cầm máy mà chụp, làm sao mà đứng với em được. Em lại đứng đó đi. Qua đứng trước mặt em đây, chớ phải đi đâu mà sợ.
Cô Quyên đứng suy nghĩ rồi hỏi:
– Anh muốn chụp hình tôi lắm hả?
– Ừ. Chụp đặng lấy hình “Tiểu thơ mặt lọ” để dành chơi.
Cô Quyên châu mày xụ mặt, ngoe ngoảy bỏ đi lại phía xe đậu.
Xuân lật đật đi theo, vừa cười vừa hỏi:
– Qua nói chơi, mà em giận qua hay sao?
Quyên chừ bự không trả lời.
Xuân lấy tay gõ gò má Quyên mà nói:
– Thôi dừng giận nữa. Giận rồi cái mặt trông xấu quá.
Quyên cười mà nói:
– Anh phải năn nỉ tôi mới chịu.
Xuân nói:
– Hay hờn mát quá! …Thôi để qua xin lỗi. Vì hôm qua chú kêu em là “Tiểu thơ mặt lọ” nên qua bắt chước mà nói chơi, chớ không phải có ý ngạo em, vậy xin em đừng giận qua nữa, lại đứng đặng qua chụp hình em để làm kỷ niệm.
Quyên cùng quằng đáp:
– Nói như vậy tôi không chịu.
Xuân lắc đầu chúm chím cười và nói:
– Trời ơi! Vậy chớ phải nói thế nào em mới vừa lòng? Thôi, để qua hun em một cái, cũng như anh Triều hun em vậy, đặng qua chuộc tội nói mích lòng em, em chịu không?
Quyên cười.
Xuân bèn kề mặt mà hun gò má Quyên, cũng như đứa em gái của mình, rồi lại dắt Quyên đứng trước lùm cây, mở máy nhắm mà chụp hình. Bóng trời chiều rọi mặt Quyên, coi cô rất vui vẻ thơ thái.
Chụp hình rồi Xuân khóa máy và nói:
– Hình của em chắc tốt lắm vì bóng, vừa không nắng nhiều, mà cũng không mát lắm.
– Chắc tốt hả? Phải anh đứng chụp chung với tôi chơi.
– Làm sao được. Có ai đâu mà mượn họ chụp.
– Thôi để về nhà, tôi với anh đứng rồi cậy tía tôi chụp được không?
– Sợ chú không biết rồi chụp hư chớ.
– Anh chỉ trước thì biết chớ gì. Coi bộ dễ mà. Để tôi biểu anh Hai tôi mua cho tôi một cái máy đặng tôi chụp chơi. Anh dạy tôi trước đi. Nghe không?
– Ừ! Để về nhà rồi qua chỉ cách chụp cho em biết.
Hai trẻ dắt nhau đi dài theo lộ mà chơi. Xa xa dưới ruộng, có mấy người đàn bà Thổ đi hái rau chóc, đội thúng rau trên đầu nước chảy xuống mặt ướt nhem.
Mặt trời chen lặn, Xuân rủ Quyên trở lại mà về, Quyên giục giặc, dường như quyến luyến cảnh đồng ruộng lúa xanh, vui khí trời mát mẻ khỏe khoắn, ham nghe tiếng dế kêu chéo chét quanh mình, nên không nỡ bỏ mà về, cứ đứng ngóng trông.
Xuân thấy vậy mới hỏi:
– Em ưa ruộng lắm hay sao?
– Tôi ưa lắm.
– Ngoài đồng buồn xo mà ưa nỗi gì?
– Ngó ruộng chơi, vui lắm chớ. Anh không ưa hay sao?
– Qua ưa đi chơi trong chợ. Ngoài ruộng buồn lắm, qua chịu không được.
– Tôi ưa ruộng chớ không ưa chợ.
– Tại em có óc ”Nhà quê”.
Quyên cười rồi đi theo Xuân trở lại xe mà về. Trời đã chạng vạng tối.
Khi xe vô sân rọi đèn thì thấy vợ chồng Ông Từ Tệt đương đứng trên thềm nhà mà chờ. Xe vừa ngưng thì bà Tệt nói: “Đi đâu xa lắm hay sao nên về tối dữ vậy.”
Cô Quyên lật đật leo xuống xe và vui vẻ nói:
– Đi ra ngoài chỗ nào đó không biết, ruộng lúa thiệt tốt lại có chùa Thổ ngộ lắm má à. Anh Xuân chụp hình chùa rồi có chụp hình con nữa. Mai con đi nữa.
Ông Từ Tệt nói:
– Có đi thì phải về sớm sớm; về trễ ở nhà lo sợ hết sức. Chắc là đi ra ngoài Sóc Đồn chớ gì, nên mới có chùa Thổ. Thôi, đi thay đồ rồi ăn cơm.
Sáng bữa sau, vừa thức dậy thì Quyên nài Xuân phải dạy cô chụp hình. Xuân cầm máy ra đứng trước sân rồi chỉ cho cô Quyên biết cách nhắm, biết cách chụp. Quyên lấy làm đắc ý, biểu Xuân chụp cái nhà lớn, chụp hai lẫm lúa, chụp cái xe hơi có cô đứng một bên.
Quyên kêu cha mẹ ra coi. Luôn dịp Xuân chụp ông Tệt, bà Tệt, rồi chụp luôn cô Quyên ngồi trên thềm nhà.
Quyên biểu Xuân cậy ông Tệt nhắm đặng ông cầm máy mà chụp cô với Xuân đứng chung. Ban đầu ông Tệt không chịu, mà bị con ép quá, nên rồi ông cũng phải làm theo ý con.
Chụp xong rồi Quyên muốn làm sao có hình cho mau đặng cô coi. Xuân phải vô chợ kiếm tiệm chụp hình mà mướn họ rửa.
Chiều lại, Quyên đòi đi chơi nữa. Hai trẻ mới ngồi xe hơi đi vô chợ lấy hình về. Tấm hình nào cũng tốt hết thảy, mà nhứt là hình Quyên đứng trước lùm cây và hình Quyên với Xuân đứng chung thì rõ ràng đẹp lắm. Vợ chồng ông Tệt lấy làm vui lòng, biểu tiệm rửa thêm nữa, mỗi thứ làm ra 5 tấm đặng để dành chơi.
Từ ấy Quyên càng dan díu với Xuân, tối ngày không chịu rời Xuân một giây phút nào hết. Cô mặc quần áo mới luôn luôn, gỡ đầu bới tóc vén khéo, chớ không bỏ tóc xõa xuống lưng như trước nữa. Hễ xế mát thì cô năn nỉ Xuân đem xe hơi đi chơi, Xuân không thể không làm theo ý muốn của cô được, nên bữa nào cũng phải cầm bánh xe chở cô đi chơi. Khi đi Phú Lộc, khi đi Hòa Bình, khi đi Sóc Đồn, khi đi Om Trà Cổ.
Có bữa ra đồng trống vắng vẻ, cô biểu ngừng xe lại, rồi cô leo xuống, hoặc ngồi dựa gốc cây, hoặc quì gối trên cỏ mà cậy Xuân chụp hình cô. Có bữa cô mang theo bánh trái, rồi ra đồng cỏ mở gói bánh ra để trên đám cỏ non xanh lè ăn chung với nhau, nói nói cười cười thiệt là hoan lạc.
Xuân đợi 10 ngày mới ký tên bán đất được. Ông Từ Tệt chồng bạc cho cậu đủ 40 ngàn, rồi cậu sửa soạn mà đi về.
Quyên hay tin Xuân tính về thì cô buồn hiu, ra vô dàu dàu. Cô thấy Xuân đứng có một mình cô mới hỏi:
- Anh về hay sao?
- Ừ! Qua về.
- Tôi muốn anh ở lại chơi.
- Sao được, qua phải sửa soạn đặng lên Sài Gòn mà học chớ.
- Tôi cũng sẽ lên Sài Gòn mà học nữa.
- Ừ! Em muốn thì nói với chú thím đem lên trển cho em học. Có anh Triều dìu dắt em cũng tiện.
- Chừng khai trường anh xuống đây rồi đi cùng một lượt với tôi và anh Hai tôi được không?
- Sợ không được, bởi vì qua có công việc nhiều lắm
Quyên châu mày ủ mặt, mà Xuân mắc lo sửa soạn hành lý nên không ngó thấy.
Lúc Xuân từ giã vợ chồng ông Tệt và cô Quyên rồi lên xe mà đi về, thì cô Quyên đứng trước cửa ngó theo, nước mắt chảy rưng rưng.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Mấy năm nay nhà nông trong xứ làm ruộng trúng mùa luôn luôn. Mà bán lúa cũng đặng cao giá nữa. Cuộc thương mại nhờ đó mà trở nên thịnh vượng, bởi vì mọi người đều làm dễ ra tiền rồi ai cũng mua đồ dùng trong nhà, ai cũng sắm áo quần lòe loẹt. Bề ăn ở của bình dân thì rộng rãi, còn của phú gia thì xa xỉ, nhứt là ở mấy châu thành, sự ăn xài quá độ phát hiện rõ hơn hết.
Tại Sài Gòn, trong dãy phố trệt ở đường Lagrandière bây giờ là đường Gia Long, giáp với đường Verdun bây giờ là đường Lê Văn Duyệt, căn nào cũng chưng dọn hực hỡ. Nhưng mà có một căn dọn vén khéo, đồ đạc tốt đẹp hơn hết. Trên hai lan can phía trước có để hai cái chậu, mỗi chậu trồng một bụi cau, lá sum sê, cọng vàng tươi. Tại cửa giữa có treo một tấm màn màu trứng gà, rẽ vén hai bên đặng ra vào cho tiện. Hai cửa sổ có giăng hai tấm màn ren cũng màu trứng gà để ngăn cát bụi, chớ không ngăn ánh sáng mặt trời.
Trong nhà, phía trước để một cái bàn nhỏ với 4 cái ghế, trên bàn có để một bình bông, còn mặt ghế thì có lót nệm gòn đặng khách ngồi cho êm; phía trong, đụng vách buồng, có để một cái đi văng, trên cũng trải nệm mỏng còn chung quanh thì đóng hộc mà để đồ. Hai bên vách cũng không bỏ trống, một bên thì để một cái tủ nhỏ, trên tủ có để một cái máy hát.
Phía trong buồng có giường sắt, giăng mùng, trải “drap” trắng muốt; có bàn viết, có tủ áo, có tủ sắt, lại dựa cửa sổ có lót một cái bàn để ăn cơm cho mát.
Căn nhà đẹp đẽ nầy là nhà của cậu Xuân mướn ở mấy tháng nay đặng mỗi ngày vô trường Chasseloup Laubat mà học cho gần.
Một bữa chủ nhật, lối 4 giờ chiều. Xuân mặc một bộ đồ mát bằng lụa trắng, cậu ra đứng dựa cửa sổ rồi kêu thằng Chí, là đứa nhỏ làm bồi, mà biểu nó nhắc cái ghế xích đu đem ra để trong hàng ba.
Cậu trở vô lấy một cuốn sách rồi nằm trên ghế mà đọc.
Mặt trời ngả bóng lần lần, trước cửa bây giờ mát rượi, còn ngoài đường thì người và xe đi lại nườm nượp.
Thằng Chí xách nửa thùng nước đem tưới hai bụi cau vàng. Nó mới trở vô thì chị chín Thiện là người ở đi chợ nấu ăn, chị ở trong lại bước ra khỏi thềm rồi đứng nói om xòm: “Bữa nay chị nghỉ may phải không chị Hai? Có cô Hai ở nhà hay không?”
Tưới cau rồi nói chuyện, những sự ấy làm cho Xuân lo ra không thể đọc sách được. Cậu mới xếp sách đứng dậy rồi bước ra đứng trước thềm. Lúc ấy dì Hai Oanh, là thợ may, tuổi trên bốn mươi, ở cách Xuân một căn phố, đương thủng thẳng đi lại. Mấy tháng nay Xuân ở gần ra vô thường gặp mặt dì Hai Oanh, nên vừa thấy dì là Xuân cúi đầu chào liền.
Dì Hai Oanh đáp lễ, vui vẻ hỏi Xuân:
– Chúa nhựt nghỉ học, cậu không đi chơi sao?
– Dạ, cháu mới đi hồi sớm mai rồi, buổi chiều ở nhà học bài. Mời dì vô nhà uống nước.
– Để cậu học chớ, có lẽ nào tôi dám làm rộn cậu.
– Thưa, không. Có bận rộn chi đâu. Cháu học bài rồi, nãy giờ ở không xem sách chơi.
Chị Thiện bải buôi tiếp lời:
– Vô nhà chơi chị Hai… vô uống nước. Tôi mới chế một bình trà còn nóng hổi.
Xuân coi bộ dì Hai Oanh chịu vô, thì cậu thối lui đứng nép một bên. Dì Hai Oanh đi trước, chị Thiện đi theo sau mà vô nhà. Xuân tiếp theo sau nữa, và kéo một cái ghế mời dì Hai Oanh ngồi. Chị thiện lo rót nước trà mà đãi khách.
Xuân lại ngồi trên đi văng rồi hỏi dì Hai Oanh:
– Dì may coi thế đắt mối dữ. Cháu thấy có người ta đến thường thường hoài.
– Không mấy khá cậu à. Tôi lãnh may của mấy cô quen thuở nay, chớ người lạ họ có biết tôi đâu mà đưa đồ cho tôi may.
– Dì có mướn người phụ với dì chớ?
– Tôi có mướn một người luông cho tôi may. Đồ có nhiều đâu mà phải mướn thợ phụ.
– Dì lập tiệm, lãnh bài sanh ý , treo bảng và rao trong báo, thì người ta mới biết mà đặt may đồ chớ.
Dì Hai Oanh ngó Xuân và chúm chím cười mà đáp:
– Lập tiệm phải có vốn bảy trăm hoặc một ngàn. Vì không có vốn, nên tôi không dám tính tới việc đó, tôi may ở nhà vậy thôi.
– Dì may ở nhà thì làm sao có lợi đủ trả tiền phố và tiền ăn xài?
– Tiện tặn thì cũng đủ. Tôi có con cháu đi thêu, nó phụ giúp với tôi.
Chị Thiện đứng vịn cái máy hát, chị tiếp mà cắt nghĩa:
- Chị Hai đây có một người cháu gái là cô Hai Quế thêu khéo lắm cậu. Cô đi thêu cho nhà hàng ngoài đường Catinat lãnh lương mỗi tháng tới 5,6 chục.
Xuân hỏi:
- Cô thêu thứ chi? Thêu lối Việt Nam hay lối Tây?
Chị Thiện làm lanh mà rồi bít lối, không trả lời được.
Dì Hai Oanh mới thế mà đáp với Xuân:
– Hồi con em tôi còn sanh tiền, có cho cháu tôi học trường Nữ học đường được hai năm, bởi vậy nó biết thêu theo lối Tây. Chừng em tôi khuất rồi, tôi đem cháu tôi về ở với tôi, thì tôi cho nó học thêm lối Việt mình nữa. Nhờ vậy nên nó biết thêu cả hai điệu. Nó thêu mặt giày, khăn tay, thêu màn, làm ren, thêu bông vào áo cho mấy ông, mấy bà, thêu thứ gì cũng được hết.
– Giỏi dữ há. Có nghề như vậy thì sự sống mới vững vàng, khỏi lo thiếu thốn.
– Phải, nó khỏi lo đói rách. Mấy tiệm may lớn họ giành nhau mà mướn nó.
– Nếu dì có tiệm may lớn, dì để cho cô lãnh phần thêu thì chắc tiệm phát đạt lắm.
– Nói gì cái đó.
Dì Hai Oanh dòm cùng trong nhà rồi nói tiếp:
– Cậu ở có một mình mà dọn nhà đẹp quá.
– Tại tánh tôi ưa sạch sẽ vén khéo.
– Cậu gốc ở tỉnh nào?
– Tôi là người Cần Thơ.
– Nghe nói Cần thơ là tỉnh giàu đệ nhứt… Ông cụ, bà cụ còn song toàn chớ.
– Thưa, ba má tôi đều khuất hết.
– Tội nghiệp dữ hôn! Mồ côi sớm quá.
– Tại cái mạng của tôi như vậy, biết làm sao bây giờ.
Dì Hai Oanh rờ bình bông trên bàn mà nói:
– Trên bàn nầy thì lẽ cậu phải để một tấm thêu tròn, hoặc hột soài, rồi để bình bông chính giữa coi mới đẹp.
Xuân đáp:
– Hôm trước có một người bạn học của tôi cũng nói như vậy. Để bữa nào rảnh rồi tôi sẽ kiếm để tôi mua.
Chị Thiện chen vô nói nữa:
- Cậu cậy cô Hai thêu cho.
Dì Hai Oanh tiếp lời:
- Con cháu tôi nó thêu thứ nầy hoài, thêu lẹ lắm, chừng ít bữa thì rồi.
Xuân dụ dự đáp:
- Cô Hai mắc đi thêu cho người ta, có thời giờ đâu mà thêu cho tôi.
- Không. Ai đặt đồ riêng thì nó thêu ban đêm ở nhà. Cậu muốn thêu cách nào, thêu bông gì thì vẽ kiểu cho cậu coi, như cậu chịu rồi nó thêu cho.
- Thiệt tôi dốt về khoa đó. Tôi không biết phải thêu bằng cách nào mà nói.
- Thứ trải bàn đây, tôi thấy có sẵn nhiều kiểu. Để nó đưa kiểu cho cậu lựa, cậu chịu kiểu nào nó thêu kiểu nấy cho cậu.
Chị Thiện nói:
- Chị Hai, để tôi lại tôi kêu cô Hai Quế đem kiểu cho cậu tôi coi.
Chị nói dứt lời thì đi liền. Xuân nói với dì Hai Oanh:
- Tôi làm nhọc lòng dì, mà lại mất công cho cô Hai nữa, tôi ái ngại quá.
- Không có nhọc lòng đâu. Dì cháu tôi là thợ may thợ thêu. Cậu đặt đồ cho chúng tôi thêu, ấy là cậu giúp cho chúng tôi chớ.
- Dì nói như vậy thì tôi mới dám.
Cô Hai Quế đi theo chị Thiện lại tới cửa. Cô bước lên thềm rồi dụ dự, chưa dám vô. Cô vừa được 20 tuổi, chơn mang guốc, mình mặc y phục tầm thường, áo lụa đen, quần lãnh đen, không dồi phấn thoa son, tay trái cô đeo cà rá nhận một hột ngọc màu đỏ bầm, chớ không có nữ trang nào khác, nhưng nhờ da trắng má bầu, nhờ gương mặt sáng rỡ, nhờ cặp mắt có đức, nhờ hình vóc dong dảy, nhờ tướng đi dịu dàng, nhứt là nhờ vẻ đẹp thiên nhiên, bởi vậy ai thấy cô cũng đều cho cô có quốc sắc.
Chị Thiện mời cô vào, mà dì Hai Oanh ở trong cũng kêu cô, bởi vậy cô chậm rãi bước vô nhà.
Xuân đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu đáp lễ, mỗi cử động đều duyên dáng.
Dì Hai Oanh nói:
– Cậu đây muốn đặt cho con thêu một tấm trải trên bàn đặng để bình bông coi cho đẹp. Con có kiểu nào hay thì đem lại cho cậu coi.
Xuân mời cô Quế ngồi, mà cô cứ đứng ngó cái bàn, mặt tỉnh táo mà suy nghĩ một chút rồi mới nói: ”Cái bàn nầy vuông. Theo ý con thì tấm thêu cũng cắt hình vuông theo chiều bàn coi mới được; song chính giữa phải có mặt trăng tròn đặng để cái bình bông. ”
Dì Hai Oanh hỏi Xuân:
– Còn màu thì cậu muốn màu nào?
Xuân bỡ ngỡ nói:
– Tôi không biết màu nào đẹp.
Lúc ấy đứa tớ gái của dì Hai Oanh chạy lại cho dì hai hay rằng có bà lục sự ghé đặng may áo và biểu mời dì về nói chuyện. Dì Hai Oanh liền từ giã Xuân và chị Thiện và dặn cô Hai Quế ở đó bàn việc thêu với Xuân rồi dì lật đật ra về.
Cô Quế đứng ngó cùng trong nhà, Xuân kéo một cái ghế ra và mời cô ngồi nột lần nữa. Bây giờ cô ngồi. Xuân ngồi phía bên kia bàn, ngang mặt cô, chị Thiện đi vô trong, vì đã chiều rồi nên phải lo nấu cơm.
Cô Quế khiêm nhượng hỏi Xuân:
– Cậu muốn thêu hàng hay là thêu vải và muốn màu nào?
– Cha chả, tôi không thạo việc nầy rồi! Xin cô liệu dùm coi thứ nào tốt thì cô làm cho tôi.
– Theo ý em, tấm thêu màu cũng phải một màu với mấy tấm màn coi mới có vẻ thanh nhã.
– Cô nói phải lắm.
– Trải bàn chẳng cần phải dùng tơ lụa, làm bằng vải cũng được. Chẳng nên thêu rằn rực, thêu bốn phía bốn nhành mai, lan, cúc, trúc thì đủ đẹp.
– Tôi chịu, xin cô thêu đi.
– Để em về vẽ kiểu cho cậu xem trước.
– Khỏi, khỏi mà. Cô liệu dùm mà làm coi cho được thì thôi. Cô thêu chừng nào mới xong?
– Chừng năm ba bữa.
– Không gấp gì. Cô thêu một tuần rồi cũng được. Song cô thêu dùm cho khéo để làm kỷ niệm chơi.
Cô Quế chúm chím cười, mặt mày càng ửng đỏ như hoa hường mới ướm nở. Cô ngó Xuân mà hỏi:
– Cậu nói thêu cho khéo để làm kỷ niệm. Vậy chớ kỷ niệm việc chi? Nên cho em biết đặng em liệu coi như cần phải sửa cho hợp với việc làm kỷ niệm.
Nghe Xuân dùng hai chữ “Kỷ niệm” không biết cô Quế có nghi cậu không thông nghĩa nên dùng đùa, như là cậu thanh niên đời nay, hay là cô nghi cậu chú ý muốn ghẹo tình cô, như nhiều cậu trai đa tình lãng mạn, mà cô gạn hỏi như vậy làm cho Xuân bối rối, sắc mặt thẹn thùng một lát rồi mới nói:
– Tôi mới phác một ý riêng, tôi muốn kỷ niệm cái ý ấy. Tôi tưởng dầu tôi có tỏ cái ý riêng ấy cho cô hiểu, có lẽ chẳng hại gì mà cần phải dấu cô. Số là mấy năm nay, ở trong trường, tôi có kết bạn thâm giao với hai người bạn học một lớp.
Ba anh em tôi tính kiếm thêm một người nữa cho đủ bốn đặng làm bạn “mai, lan, cúc, trúc” để tiêu biểu một tánh chất tứ thời. Chúng tôi chưa gặp một người nào đồng tâm đồng chí đáng nhận làm người thứ tư.
Hôm nọ một anh bạn tôi có tỏ ý nếu kiếm bạn nam nhi không ra thì chúng tôi có lẽ sẽ chọn một cô gái làm người thứ tư cũng được. Người bạn tôi tỏ ý như vậy, tôi tưởng là muốn giễu cợt, chẵng dè hôm nay cô tính thêu “mai, lan, cúc, trúc”, mà cô lại là gái nữa, ấy vậy họ biết chừng cô là người thứ tư trong đám bằng hữu, mà người bạn tôi đã đoán trước hôm nọ. Tôi muốn cô thêu để kỷ niệm cái ý ấy.
– Em lựa kiểu thêu, thiệt em không dè kiểu ấy lại thích hợp với việc riêng của cậu. Vậy em cũng thêu kiểu đó, khỏi cần phải sửa đổi, mà em lại ráng thêu cho đẹp, để biểu hiện cho xứng đáng cái tình cảm của cậu.
– Tôi rất cám ơn cô. Cô cần phải lấy tiền trước đặng mua hàng, mua chỉ thêu hay không?
– Thưa, không.
– Mấy năm nay ba anh em tôi kêu nhau như vầy: Tôi trơ trọi một mình, không có anh em, lại nhứt định không cưới vợ, bởi vậy mấy bạn tôi cho tôi là Mai. Anh Triều, người gốc Bạc Liêu, anh tha thướt, yếu đuối lắm, nên anh là lan. Anh Quan gốc Trà Vinh, anh lỏng khỏng ốm yếu mà tánh tình lại ghét cái dở, cái thấp, cái bậy, nên cho anh là quân tử Trúc.
Còn Cúc, thì chưa có ai. Cúc biểu hiện cho người ẩn dật mà thơm tho xinh đẹp. Cô là người ẩn núp trong hạng bình dân, mà cô lại có sắc đẹp, có danh thơm, nếu cô vui lòng làm biểu hiện cho Cúc thì chúng tôi hân hạnh lắm.
Cô Quế nghiêm nét mặt mà suy nghĩ một chút, rồi cô ngó ngay Xuân mà đáp:
– Em rất cảm ơn cậu. Em không dám.
– Sao mà cô không dám? Cô ngại sợ nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng phải không?
– Thưa, không. Nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng xấu, ấy là tại tánh tình thấp thỏi, rồi gây ra những chuyện không hay, nên mới mang tiếng xấu, chớ người đã quyết lập tánh tình cao thượng như: Mai, Lan,Trúc thì quí lắm. Em được làm bạn, em có ngại chi đâu. Em nói em không dám là vì em sợ em không xứng đáng ngang hàng với mấy cậu là bực giàu có sang trọng đó mà thôi.
– Lời cô nói đó là lời khiêm nhượng, chớ tôi chắc cô dư biết theo ý chí của người quân tử, thì nhân nghĩa, đạo đức mới quí chớ không phải là giàu sang mà quí đâu. Mà bọn anh em tôi không phải giàu sang gì cả, có người cũng nghèo khổ lắm chớ.
– Mấy cậu học giỏi còn phận em dốt nát quá, em phải đi thêu mướn mới có cơm mà ăn.
– Ối. Theo ý tôi, dầu cầm cây viết hay là cây kim cũng vậy, hễ nghiệp nghề mình được chí thiện, tận mỹ thì quí như nhau, chớ không phải người cầm viết mà sang hơn người cầm kim. Chúng tôi học chữ, ví như chúng tôi có tài viết văn hay; còn như cô đi thêu mướn mà cô có tài thêu khéo. Cái hay đối với cái khéo thì bằng nhau chớ có cao thấp chi đâu.
Cô Quế cười mà thôi, chớ cô không trả lời nữa. Cô đứng dậy dợm từ mà về, Xuân biết ý liền nói:
- Mời cô ngồi nói chuyện chơi một chút nữa.
- Em sợ làm mất thời giờ của cậu.
- Không, không … Cô nói chuyện nghe có ích lắm. Chúa nhựt không đi học, tôi ở nhà tôi buồn hết sức. Nãy giờ có cô nói chuyện, tôi vui không biết chừng nào.
- Em mới đến nhà cậu lần đầu, mà em nói chuyện nhiều quá em sợ khiếm nhã. Vậy em xin từ cậu mà về, để khi khác có lẽ em sẽ ngồi lâu hơn.
- Cô sợ ngồi chơi lâu rồi dì Hai không vui hay sao?
- Thưa, không. Dì Hai em biết tánh tình của em, nên chẳng bao giờ hiềm nghi chỗ đó.
- Còn tấm thêu cô chắc bữa nào thêu rồi?
- Cậu cho em một tuần thì mãn tuần rồi em sẽ đem lại.
- Bữa nay chúa nhựt, té ra chúa nhựt tuần sau tôi sẽ có tấm thêu mà trải bàn.
- Thưa, phải.
Xuân đứng dậy mà suy nghĩ, rồi nói tiếp:
- Xin cô cho biết cô có chịu làm Cúc, theo như lời tôi nói hồi nãy đó hay không?
- Xin cậu để cho em suy nghĩ ít bữa rồi em sẽ trả lời.
- Được. Tôi muốn sáng chúa nhựt cô đem tấm thêu lại được hôn.
- Thưa, được.
- Tôi sẽ cho hai người bạn tôi hay, đặng hiệp với tôi mà tiếp rước tấm thêu đó. Cô Hai, tôi muốn mời cô sớm mai chúa nhựt cô ở lại chơi rồi ăn cơm trưa với ba anh em tôi, được không? Tôi sẽ lại nhà cô mà xin phép với dì Hai cho.
- Nếu vậy thì có lẽ được.
- Để mai mốt rồi tôi sẽ xin phép với dì Hai mà mời cô ăn cơm.
Cô Quế cười rồi từ mà đi về. Xuân đưa khách ra tới thềm rồi mà còn đứng ngó theo, và miệng chúm chím cười.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Chúa nhựt tuần sau.
Lối bảy giờ rưỡi sớm mai. Triều là con của ông Từ Tệt ở Bạc Liêu, với Quan là con một bà sương phụ ở Trà Vinh, cả hai đều học tại trường Chasseloup Laubat, ăn ngủ trong trường và là bạn thâm giao của cậu Xuân, y theo lời Xuân mời nên hiệp nhau ra nhà Xuân.
Khi bước vô cửa, hai cậu có ý sụt sè, vì sợ có khách lạ đã tới trước rồi. Chừng thấy có một mình Xuân từ trong đi ra, y phục đàng hoàng, mặc đồ trắng mới ủi thẳng băng, cổ thắt nơ đen, đầu chải láng mướt thì Triều cười mà hỏi:
– Cô Cúc chưa lại hay sao?
– Chưa, mời hai anh ngồi. Có lẽ 8 giờ rồi cô mới lại.
– Cô hứa chắc không?
– Chắc chớ. Hôm thứ năm, moa có lại nhà mà xin phép với dì của cô. Dì cô bằng lòng, mà cô cũng hứa lời nữa. Tại sao mà toa nghi nên toa hỏi như vậy.
– Con gái hay mắc cỡ. Moa sợ cô ái ngại không dám ăn cơm với mình chớ.
– Không, đời nay con gái Việt mình dạn dĩ lanh lẹ lắm, chớ phải như con gái đời xưa hay sao?
– Cô chịu kết tình bằng hữu với ba anh em mình hay không?
– Việc đó cô chưa có hứa. Cô nói để cho cô suy nghĩ ít bữa.
– Moa sẽ năn nỉ với cô.
– Năn nỉ làm chi?
– Toa ở ngoài nầy toa buồn; để toa năn nỉ cho toa có một người bạn đặng nói chuyện chơi cho vui.
Nãy giờ Quan ngồi im lìm. Chừng nghe Triều nói như vậy Quan mới nói: ”Anh Triều bày chuyện quá! Anh muốn làm cho anh Xuân vui rồi cuối năm ảnh thi rớt cho mà coi.”
Triều ngoe ngoảy hỏi Quan:
- Vui mà sao lại thi rớt?
- Mắc vui nên cứ chơi hoài, học có được đâu mà thi đậu.
- Con người phải làm việc, mà cũng phải giải trí, nếu làm việc hoài mà không giải trí thì phải bịnh, hoặc phải điên.
- Giải trí có nhiều cách. Ta đi chơi ngoài đồng, ta đi xem hát. Giải trí như vậy dầu không có ích thì cũng không hại. Chớ kiếm con gái mà làm bạn, đặng nói chuyện để giải trí. Trời ơi! Hiểm nghèo lắm, moa sợ có hại chớ không có lợi đâu.
- Toa tụng kinh cho hai đứa moa nghe hả?
Xuân can hai người:
- Hai anh chẳng nên cãi. Triều sợ moa buồn, còn Quan sợ moa hư, hai người đều lo cho moa hết. Vậy moa cám ơn. Song moa xin Quan chẳng cần phải lo cho moa lắm, bởi vì moa như một gốc cây, không biết nhiễm ái tình, không để ý đến gia thất, bởi vậy moa gần đàn bà con gái không hại gì đâu mà sợ.
Quan rùng vai mà đáp:
- Cần phải thí nghiệm rồi sẽ đoan chắc.
- Ba anh em bàn luận tới đó, kế cô Quế bước vô, tay cô cầm một gói giấy màu trắng hường. Bữa nay cô mặc một bộ y phục bằng lụa trắng mới tinh, may thiệt khéo, tuy cô không trang điểm cho lắm, song nhờ có vẻ đẹp thiên nhiên, nên cô thiệt có duyên, lại có sắc nữa.
Ba cậu đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu mà đáp lễ, vừa đoan trang, vừa nghiêm nghị.
Xuân muốn tiến dẫn hai người bạn cho cô Quế biết, nên nói:
– Anh nầy là Triều, tiêu biểu cho Lan; còn anh nầy là Quan, tiêu biểu cho Trước, hai người bạn thiết tôi đã nói cho cô nghe hôm trước.
Cô Quế chào hai người một lần nữa rồi nói:
– Còn cô Quế 20 tuổi mà thôi. Hết thảy phải tôn Triều làm anh cả, còn cô Quế đành chịu làm em út.
Xuân hỏi Triều vậy chớ được chức anh cả sao không đãi tiệc hoặc làm lễ gì, để ra mặt người lớn. Triều suy nghĩ rồi kêu thằng Chí đưa cho 5 đồng bạc và biểu nó đi mua hai đồng bạc bánh ngọt còn bao nhiêu thì mua nước cam với nước đá đặng đãi các em. Xuân với Quan vỗ tay mà khen cử chỉ xứng đáng.
Lúc đợi thằng Chí đi mua đồ ăn uống thì Xuân mời hết anh em đi cùng trong nhà từ trước ra sau, đặng anh em thấy cách sắp đặt chỗ ăn ở của mình. Triều khen cái nầy chê cái nọ, nói vang rân, duy có Quan với cô Quế đi theo mà không nói chi hết. Xuống tới nhà bếp thấy chị Thiện đương lăng xăng nấu nướng, Triều kiểm soát các vật thực coi chủ nhà sẽ đãi món gì, rồi móc túi lấy ra một đồng bạc mà cho chị Thiện và nói: “Chị nấu cho ngon, nghe không. Nếu tôi ăn ngon thì tôi còn thưởng.”
Quan cười nói với Xuân:
– Anh Triều bữa nay rộng rãi quá.
– Được chức “anh cả” người ta khoái, nên xài lớn.
Xuân mời trở ra trước đặng nghe vặn “ra đô”. Cô Quế xin để cho cô tiếp tay với chị Thiện lo nấu ăn. Anh em đều không chịu, ép cô phải chơi, chớ không được làm.
Đương hát trong máy thu thanh thì thằng Chí về, cô Quế đi lấy dĩa mà sắp bánh, còn Xuân với Quan thì vô trong lau ly và coi thằng Chí chặt nước đá, duy chỉ có Triều cứ ngồi nghe hát, làm ra tuồng anh cả để các em lo cho mình. Chừng bánh với nước cam dọn ra xong rồi, Triều mới tắt máy thâu thanh, buộc mỗi người phải ngồi ngay hiệu của mình.
Xuân với tay tính lấy một cái bánh, Triều liền cản mà nói:
– Khoan đã! Phải để cho anh cả đọc đích cua rồi mới được ăn uống.
Quan có tánh trầm tĩnh hơn hết, mà nghe nói như vậy thì vỗ tay và nói:
– Đích cua chắc hay lắm. Vậy để tôi vỗ tay trước.
Triều không thèm để ý đến lời châm biếm của Quan, cậu thủng thẳng đứng dậy, bộ coi rất nghiêm nghị, mắt ngó tấm thêu trên bàn rồi nói lớn:
– Các em. Bộ tứ thời của chúng ta mấy năm nay chỉ có ba tấm mà thôi là Mai, Lan và Trúc , còn thiếu một tấm Cúc chúng ta tìm không ra. Hôm nay chúng ta mới tìm được một bụi Cúc. Mà Cúc nầy vừa thơm tho, vừa tươi đẹp, thiệt chúng ta có phước không biết chừng nào. Vậy chúng ta mỗi người phải ăn vài cái bánh, uống cạn một ly nước cam, đặng chào mừng bụi Cúc xinh đẹp mới tìm được, cầu chúc cho tình Mai, Lan, Cúc, Trúc của chúng ta trăm năm bền vững, nhứt là thệ tâm gìn giữ thái độ và tánh tình cho cao thượng cũng như bốn thứ cây biểu hiện cho của chúng ta.
Triều nói dứt lời liền lấy một cái bánh ăn. Anh em đều vỗ tay lốp bốp rồi ăn uống.
Xuân nói:
– Lan mừng Cúc, theo phép lịch sự thì Cúc phải cám ơn. Đợi nghe em Quế nói sao đây.
Cô Quế nghe lời khiêu khích như vậy, thì cô đứng dậy, bộ rất yểu điệu, miệng chúm chím cười rất duyên dáng. Cô chậm rãi nói:
– Kính thưa ba anh, phận em hèn mọn, em có phước nên được ba anh hạ cố, khứng kết nghĩa kim bằng với em, cái ơn ấy dù ngàn năm em cũng chưa quên được. Em là em út, vậy em xin ba anh dạy bảo cho em, nếu em có sơ sót chỗ nào xin ba anh dung thứ. Em nguyện sẽ giữ gìn bản tánh như Cúc, cũng như ba anh hứa giữ gìn tánh tình như Mai, Lan và Trúc vậy. Em van vái ba anh ăn học, công sớm thành, danh được toại, rồi chung lộn với đời mà làm những việc ích quốc lợi dân, nghĩa là đem tài hay đức tốt làm cho dân tộc ta được tiến bộ, được văn minh, ngang hàng với những dân tộc tiên tiến trên thế giới.
Ba cậu vỗ tay một hồi rất lâu, rồi mỗi người đều cúi đầu và đưa tay nắm tay cô Quế, để biểu hiện tình bằng hữu kết chặt từ đây.
Chừng ngồi ăn uống lại, Triều mới nói:
– Bữa nay vui quá. thiệt tôi không dè em Quế chơn chất mà lại dạn dĩ đến thế. Từ rày sắp lên, hễ chúa nhựt thì anh em mình tựu nhau lại đây đặng ăn uống đàm luận chơi cho vui, toa chịu hay không, Xuân?
Xuân đáp ngay:
– Chịu lắm.
Triều suy nghĩ một lát rồi nói tiếp:
– Mà đàm luận thì phải nói chuyện có ích, chớ không nên nói chuyện pha lửng bậy bạ, đã mất thời giờ, lại tổn đức nữa. Moa là anh cả sẽ coi chừng, nếu ai nói chuyện quấy hoặc vô ích, moa sẽ rầy thẳng tay. Bữa nay là buổi nhóm đầu tiên. Vậy mỗi người nên tỏ cho anh em biết quan niệm về sự ở đời của mình như thế nào.
Ai nấy đều nín khe.
Triều bèn nói lớn:
– Xuân, toa nói trước đi. Toa nói cái ý toa muốn đường tương lai của toa ra thể nào.
– Anh cả phải nói trước chớ.
– Mấy em nói trước rồi anh cả sẽ nói sau.
– Nếu muốn tôi nói trước thì tôi nói… Từ ngày tôi có đủ trí khôn, tôi thấy xã hội Việt Nam mình, tôi buồn lắm. Xã hội gì mà có rất ít người biết lo cho dân khôn ngoan, lo cho nước cường thạnh, mỗi người chỉ lo phận mình, ai cực chết mặc ai, nước nghèo nước yếu mặc nước. Giữa lúc trong hoàn vũ người ta lấy chủ nghĩa Quốc gia làm mục đích, còn mình cứ ôm thờ chủ nghĩa cá nhân. Tôi coi thế Quốc gia mình cứ mỗi ngày mỗi nghèo yếu, tôi thấy xã hội mình ngày càng thêm suy bại, chớ không thể phát đạt nổi, dầu vật chất hay là tinh thần cũng vậy. Vì thấy tình cảnh như vậy nên tôi nhứt định ráng học cho cùng đường, học thành tài rồi cũng không thèm lập gia đình, tôi để hết trí lực tài năng mà lo chấn hưng xã hội, lo nâng cao trình độ cho quốc dân, lo làm cho Quốc gia được giàu được mạnh.
– Hứ! Chú nó có cái óc tham lo quốc sự, tính thí thân đi lo cho nước cho dân. Nầy, người ta nói gia đình là nền tảng của quốc gia, của xã hội. Nếu muốn cho quốc gia được phú cường, xã hội được cao thượng, thì trước hết phải lo bồi đắp tô điểm gia đình, chớ sao toa lại nói toa không thèm lập gia đình? Toa cày ruộng mà toa để lưỡi cày đi trước con trâu, thì làm sao toa cày được? Toa phải suy nghĩ lại. Mà toa quyết học cho cùng đường vậy chớ toa học khoa nào?
– Việc đó moa chưa quyết định, để lấy đủ hai bằng Tú tài rồi sẽ hay.
– Được. Toa có ý muốn lo việc công ích, lo bồi đắp Quốc gia thì cũng được. Song moa khuyên toa phải nhớ rằng chủ nghĩa gia đình là chủ nghĩa tối yếu, dầu làm việc gì cũng phải nương theo gốc ấy mới được… Còn Quan, toa có sắp tiến trình của toa rồi hay chưa?
Quan chúm chím cười và thủng thẳng đáp:
– Phận tôi mẹ góa con côi, trong nhà vừa đủ ăn chớ không có dư dả, bởi vậy quan niệm về tiến trình tôi không dám nuôi chí viễn đại. Tôi mong học thi cho đậu hai bằng Tú tài rồi tôi kiếm chút công việc làm để nuôi thân, cho má tôi và anh tôi khỏi tốn hao với tôi nữa.
– Toa làm việc rồi toa cưói vợ, hay là toa cũng không thèm lập gia đình như Xuân vậy.
Nghe Triều hỏi như vậy, Quan lộ sắc mặt mắc cỡ, liếc ngó cô Quế, rồi cúi mặt mà suy nghĩ.
– Toa nói đại cho anh em nghe chơi, có chi đâu mà mắc cỡ.
– Nếu tôi làm việc mà có tiền dư thì tôi sẽ cưới vợ. Mà cưới vợ thì tôi chẳng cần kiếm con nhà giàu sang, tôi chỉ lựa người bạn trăm năm có đức, có hạnh, ham cần lao, biết tằn tiện, biết quí trọng chồng, biết dạy dỗ con cái vậy thôi, để tạo lập một gia đình thuận hòa vui vẻ, mà hưởng hạnh phúc ở đời. Gia đình của tôi chẳng cần giàu, miễn được xum hiệp trong một căn nhà lá cao ráo sạch sẽ, chung quanh có một miếng đất để trồng cây, hoặc trồng rau cải, rồi sớm mai và buổi chiều, tôi tưới cây, tưới rau chơi cho giải trí. Tôi hy vọng nhỏ nhen thấp thỏm như vậy song không biết có được mãn nguyện hay không?
– Moa biết tánh ý của toa. Moa chắc toa sẽ mãn nguyện. Toa có muốn giàu sang gì đâu mà thất vọng… Còn em Quế quan niệm của em về đời tương lai như thế nào, em nói cho mấy anh nghe thử coi.
Cô Quế cười mà đáp:
– Em không có tính tới việc tương lai. Phận em nghèo, nên em mắc lo bề hiện tại.
– Em có tính lấy chồng đặng lo làm ăn chớ?
– Việc ấy không phải việc của em phải tính. Mà em cũng đã nhứt định không thèm tính.
– Phải, con gái dầu muốn lấy chồng mà không có chú trai nào xin cưới thì làm sao lấy chồng cho được mà tính. Anh muốn biết ví như có một chú trai nào xin cưới em, vậy chớ em có chịu lấy chồng hay không?
– Anh hỏi như vậy, em không trả lời được. Vợ chồng phải tâm đầu ý hợp thì gia đình mới có hạnh phúc. Anh nói có một người trai xin cưới em, mà em không biết người ấy hay dở, cao thấp thế nào, làm sao em ưng được? Mà đời nay đàn ông con trai phần đông đều giả dối, họ có biết danh dự, có kể gia đình là gì.
– Anh hiểu rồi. Em cũng trọng chủ nghĩa gia đình như Quan, song em kén chọn người bạn trăm năm phải tâm đầu ý hiệp em mới ưng, chớ không phải nuôi ý tưởng “vô gia đình ” như chú Xuân.
Xuân rùn vai mà cãi với Triều:
– Muốn hỏi em Quế về việc tương lai thì hỏi coi em tính làm ăn cách nào, chớ sao toa lại hỏi việc vợ chồng. Cử chỉ của toa coi khiếm nhã.
– Chú Xuân quên tôi là anh cả hay sao nên kêu tôi bằng “toa” vậy hả?
– Thôi, kêu bằng “anh cả”. Vậy xin anh cả hỏi em Quế có tính việc làm ăn thế nào hay không? Hay là cứ đi thêu mướn cho tới già.
Triều gật đầu và ngó cô Quế mà nói:
– Em trả lời với Xuân đi.
Cô Quế suy nghĩ một chút rồi mới đáp:
– Cần lao là chủ hướng của em thuở nay, bởi vì em nghĩ sanh làm con người thì phải làm việc; lại có làm việc cực nhọc thì trí mới mở mang, thân mới tráng kiện. Ngặt vì thêu mướn cho người ta mà ăn tiền ngày tiền tháng, thì tấm thân có hèn hạ đôi chút. Vì vậy em tính tiện tặn để dành tiền, đặng ngày nào em có chút ít vốn, em lập một tiệm may nho nhỏ, em thêu đồ em bán, em làm chủ thân em, cho khỏi cái thấp hèn tôi tớ. Hy vọng của em chỉ có bấy nhiêu đó.
Quan ngồi trơ trơ mà sắc mặt coi tư lự lắm.
Xuân nói:
– Ba em đã nói đủ rồi. Bây giờ tới phiên anh cả. Anh nói đi.
Triều tằng hắng rồi mới chậm rãi nói:
– Để anh tóm tắt chủ trương của ba em coi rồi anh nói tới việc anh tính. Xuân thì chủ hướng về Quốc gia xã hội. Quan thì chủ hướng về gia đình. Còn em Quế thì chủ trương về cần lao. Ba em tuy chí khác nhau, song bổn tâm người nào cũng tốt hết. Còn phận anh bây giờ muốn cái gì nào. Mình ở nhằm xứ ruộng, lại con nhà làm ruộng. Thuở nay anh thích nghề nông lắm. Mình gieo một đám mạ, trong ít ngày mạ lên tốt, phơi màu xanh lặc lìa, xem khỏe con mắt biết chừng nào. Chừng cày cấy rồi cũng vậy, lúa nở bụi coi vui quá. Còn nói gì lúa trổ, sớm mai mình đi thăm ruộng, mình hửi mùi thơm tho lạ thường, tới chừng lúa chín mình ngó đám ruộng, mình thấy một màu vàng tươi, mình mừng hết sức, mừng vì công phu của mình được kết quả và nhứt là mừng vì lúa sẽ làm cho mình có tiền nhiều. Ấy vậy học xong rồi có lẽ anh sẽ về nhà cưới vợ rồi lo làm ruộng đặng có lúa cho nhiều mà nuôi thiên hạ.
Xuân cười và nói:
– Anh nuôi người ta, mà người ta phải trả tiền cho anh.
– Chớ sao!... Trả tiền mặt nữa à!
– Tôi thay mặt cho dân làm ruộng mà cảm ơn anh!
– Nếu tránh sự anh bán lúa mắc thì hết thảy ra làm ruộng như anh đặng có lúa mà ăn khỏi đi mua.
– Nếu dân cả nước đều làm ruộng hết thì ai bán cá thịt, rau cải cho mà ăn, làm sao có áo quần mà mặc, làm sao có xe cộ mà đi?
– Chưa gì mà toa đã bàn về vấn đề kinh tế, toa muốn binh xã hội rồi đó. Khoan đã, để sau rồi sẽ hay. Bữa nay mình nói chủ trương của mình cho anh em nghe chơi chớ có việc chi đâu mà cãi. Nhưng mà trong bọn có ba người biết yêu chủ nghĩa gia đình, duy có một mình toa khác ý. Toa phải suy nghĩ lại chỗ đó.
– Tôi nhứt định không cưới vợ. Chắc chắn như vậy.
– Không chắc chắn đâu, để sau rồi sẽ biết.
Đồng chỉ 11 giờ, chị chín Thiện nấu nướng đã xong, thằng Chí bưng dọn lên bàn ăn ở trong, rồi ra nói nhỏ cho chủ hay.
Xuân bèn đứng dậy mời khách vô dùng cơm. Chủ khách ngồi chung quanh bàn ăn, cũng theo thứ tự Mai, Man, Cúc, Trúc, tức thì cô Quế ngồi đối diện với Xuân bên tay trái của cô thì có Triều, còn bên tay mặt thì có Quan.
Bữa ăn nầy ở trong một bầu không khí vừa vui vẻ vừa thân mật. Tuy Xuân thì có tánh nghiêm nghị, còn Quan ưa trầm tĩnh lại khiêm nhượng, nên hai người ít cười, song nhờ có Triều lanh lợi bãi buôi, nên câu chuyện kéo dài, mà chẳng bao giờ khiếm nhã.
Gần một giờ trưa, ăn cơm rồi, cô Quế mới từ ba cậu mà về. Vì mấy anh theo nài xin, nên cô phải hứa cô sẽ xin phép với dì cô đặng mỗi chúa nhựt cô lại nhà Xuân nói chuyện chơi cho trọn niềm bằng hữu.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Trót mấy tháng trường, bốn bạn Mai, Lan, Cúc, Trúc, hễ chúa nhựt thì hội nhau lại nhà cậu Xuân mà nghị luận, hoặc về nhân tình thế thái, hoặc về văn chương, rồi khi thì ở ăn cơm với nhau, khi rủ nhau đi chơi, hoặc lên miền Lái Thiêu, hoặc vô trong Chợ Lớn. Đối với cô Quế thì Xuân, Quan và Triều đều giữ mực cung kính, bởi vậy cô Quế không ái ngại, không sụt sè chi hết, cô trọng ba cậu cũng như anh ruột của cô. Vì gần gũi nhau như vậy nên tình bằng hữu ngày càng càng thêm mặn nồng, và tuy cãi lẽ với nhau, song mỗi người đều giữ vững cái chủ hướng của mình, không ai chịu vì ai mà thay đổi tâm chí.
Gần tới ngày thi Tú tài kỳ nhì, Triều, Xuân và Quan lo học đêm học ngày, hễ chúa nhựt chẳng nói chuyện chi khác là sách vở. Cô Quế sợ mấy anh vì cô mà lo ra rồi lơ đãng sự học, bởi vậy cô xin mấy anh cho phép chúa nhựt khỏi hội nữa, đợi chừng nào thi xong rồi sẽ tái hiệp mà đàm luận việc đời. Mấy cậu cũng nhứt định đình cuộc hội hiệp.
Một bữa chúa nhựt, Xuân đương ngồi học ôn những bài về triết lý, thình lình Quan bước vô, sắc mặt buồn hiu. Xuân chỉ ghế mời bạn ngồi và hỏi:
- Toa đã nhứt định ở luôn trong trường mà học, mà sao toa còn ra đây?
- Mấy tuần nay ở luôn trong trường, trí vừa mệt lại thấy buồn hiu, vì vậy moa đi giải trí một chút. Toa học triết lý phải không?
- Phải.
- Quan châu mày, ngó cùng trong nhà rồi hỏi:
- Em Quế bữa nay không lại chơi hay sao?
- Không. Mình đã nhứt định đình cuộc hội hiệp, nên mấy tuần nay em Quế không có lại chơi nữa.
- À, phải. Moa mệt mà ra đây thấy toa ngồi học moa càng thêm mệt.
Quan dứt lời liền đứng dậy đi qua đi lại. Cách một hồi lâu cậu hỏi Xuân:
- Toa mệt hay không?
- Không. Toa hỏi chi vậy?
- Tưởng toa học mệt thì anh em thả đi chơi một chút mà giải trí.
- Đi đâu?
- Đi đâu cũng được, thả đi bậy ngoài chợ, hay là đi thăm em Quế chơi.
- Toa muốn thăm em Quế à?
- Ừ! Thăm chơi một chút.
- Mỗi ngày em đi ngang cửa nhà moa, nên moa thấy em luôn luôn, có cần gì phải thăm em, nếu toa muốn đi thì moa đi dùm cho.
- Không… Không phải moa muốn.
Quan chấp tay sau lưng, đi qua đi lại nữa. Chẳng hiểu cậu nghĩ thế nào mà thình lình cậu nói: ”Ừ! Buồn quá. Thay đồ đặng lại thăm em Quế chơi toa ”.
Muốn làm vui lòng bạn, Xuân xếp sách đi thay y phục.
Cô Quế đương ngồi chăm chỉ thêu tại hàng ba. Cô mặc áo bà ba lụa trắng, quần lãnh đen, không trang điểm chi hết, nhưng mà gương mặt sáng rỡ như trăng rằm, miệng đẹp đẽ như đóa hoa hường mới nở, cặp mắt thanh bạch biểu lộ lòng vô tư lự.
Xuân với Quan tới ngang cửa bèn đứng ngoài cửa mà ngó vô. Có lẽ hai cặp mắt chong ngó có điện lực mạnh mẽ lắm hay sao, mà cô đương chăm chỉ trông bàn thêu thình lình cô lại ngước mắt lên ngó ra đường. Thấy Xuân và Quan thì sự vui vẻ liền phát hiện ra mặt mày cô, làm cho diện mạo cô tươi tắn lại càng tăng thêm vẻ đẹp. Cô buông bàn thêu, vội vã đứng dậy, vừa cười vừa hỏi lớn: “Hai anh đi đâu đó? Kiếm thăm em phải không? Em xin mời hai anh vô chơi một chút”.
Xuân với Quan đi vô, Xuân đi trước chăm hẩm bước lên thềm, còn Quan theo sau trong lòng ngần ngại nên bước không được mạnh mẽ.
Cô Quế vui vẻ nói:
- Hai anh lại thăm em, thiệt em mừng lắm. Em mời hai anh vô nhà.
Xuân ngó vô nhà mà hỏi:
- Có dì Hai ở nhà hay không?
- Thưa, có. Dì em ở nhà sau. Mời hai anh vô chơi, rồi một chút dì em sẽ ra. Anh Quan định ở luôn trong trường mà học cho đến ngày thi, sao anh ra?
Quan đương cầm cái bàn thêu đưa lên mà coi, mắt chăm chỉ ngó tấm thêu, chừng cô Quế hỏi như vậy thì cậu bối rối đáp:
- Tôi định ở luôn trong truờng song hôm nay học mệt quá, nên đi ra chơi một chút.
Xuân nói:
- Tôi đương học, Quan ra rồi biểu tôi thay đồ đặng lại thăm em, nên hai đứa tôi mới lại đây.
Cô Quế ngó Quan vừa cười vừa nói:
- Té ra nhờ anh Quan chủ mưu, nên mới có cuộc gặp gỡ nầy. Em rất cám ơn anh Quan.
Quan bối rối, không đáp theo ý cô Quế, mắt cứ ngó tấm thêu mà hỏi:
- Em thêu hình chi đây?
- Em mới bắt đầu thêu từ hồi sáng nay nên chưa ra hình chi hết. Để chừng em thêu xong rồi hãy cho mấy anh xem. Có lẽ chừng ba anh thi đậu thì em thêu cũng rồi.
- Mà em tính thêu cảnh chi đây chớ? Em nói trước nghe chơi.
Cô Quế bước lại đứng khít một bên Quan rồi chỉ vô tấm thêu mà nói:
- Em tính dấu mấy anh mà dấu không được. Em ngụ ý muốn thêu một cây thông già, trên ngọn có một cặp chim phượng hoàng đậu mà ngó mông ra một khoảng trời rộng minh mông, trông mút mắt. Đồng không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, mà chỗ nào cũng cỏ non đua mọc, phơi màu xanh mướt như gấm như nhung. Ở xa thì có một dãy núi lúp xúp, song thấy dàng dạng mà thôi, chớ không tỏ rõ.
- Em bắt đầu thêu cây thông đây phải hôn?
- Thưa, phải. Em thêu cây thông ở gốc nầy, để dư chỗ cho nhiều đặng thêu khoảng đồng với dãy núi.
- Dãy núi nằm chỗ nào?
- Phía trên đây.
- Cái cảnh em nói đó thiệt là cảnh chứa chan thi vị. Cha chả, mà thêu ra cảnh đó có lẽ hơi khó, chớ không dễ đâu. Nếu mình vẽ thì mình liệu mà cho màu, có lẽ được, chớ thêu mà làm cho ra cỏ non, cho ra dãy núi thấy mờ mờ đàng xa, cho ra màu da trời, thiệt là khó. Phải có cái tâm hồn mỹ thuật đầy đủ thì thêu mới được.
- Vẽ hay thêu cũng vậy, nếu không có tâm hồn mỹ thuật thì làm sao cho ra cảnh vật được. Tấm tranh em tính thêu đây thiệt là khó, nhưng em ráng để hết tâm hồn trí ý của em vô đặng thêu thử coi được hay không?
Xuân gật đầu hỏi Quế:
- Tấm tranh nầy em thêu đặng bán hay là thêu để chơi?
- Trong một tuần lễ, em phải làm việc cho người ta đến 6 ngày, để lấy tiền mà nuôi sự sống, còn có một ngày chúa nhựt em rảnh rang, em phải để dành ngày ấy em chơi, em có thèm tính làm đặng bán lấy tiền thêm đâu.
- Em tưởng tượng cảnh để thêu như vậy đó, có lẽ em còn ẩn ý gì chớ chẳng không. Tôi muốn biết chỗ đó.
Cô Quế ngó ngay Xuân mà chậm rãi đáp:
- Anh muốn hiểu chỗ đó thì em nói cho anh nghe. Mấy tháng nay em được ba anh hạ cố, cho em làm bằng hữu rồi đàm luận việc đời với nhau, mấy anh làm cho em suy nghĩ đến những việc mà thuở nay em không để ý. Mấy anh vạch tấm màn thế sự ra cho em dòm thấy bọn thanh niên hiện thời, dù trai gái cũng vậy, người nào cũng xem đường đời cùa mình chớn chở hy vọng, song nó minh mông lại lờ mờ quá, không biết phải theo hướng nào mà đi cho tới cảnh hạnh phúc. Tại em thấy như vậy nên em hội ý, muốn thêu bức tranh nầy để ghi tạc tâm hồn thanh niên trong lúc nầy chơi.
Quan gật đầu khen:
- Em đã sẵn tâm hồn mỹ thuật, em còn có thêm tâm hồn thi sĩ nữa, hai tâm hồn ấy lại hướng về xã hội, gái như em mới đáng lãnh chức “gái tiền tiến”.
Cô Quế lật đật xua tay và nói vội:
- Anh đừng quá khen em. Anh khen như vậy, một là em tự thẹn rồi không dám làm, hai là tự đắc rồi em không ráng sức, thua sút người ta còn gì.
Quan chưa kịp trả lởi, kế thấy dì Hai Oanh từ nhà sau đi ra. Cô Quế nói:
- Dì của em kia. Mời hai anh vô chơi.
Xuân với Quan cúi đầu chào dì Hai Oanh. Dì Hai Oanh biết Xuân, nên vui vẻ nói:
- Tôi chào hai cậu. Con dại quá, sao con không mời hai cậu vô nhà, để đứng ngoài hàng ba mà nói chuyện? Tôi mời hai cậu vô nhà chơi.
Xuân với Quan vô nhà. Cô Quế nhắc ghế mời khách ngồi rồi lo rót nước trà đãi khách.
Xuân và Quan ngó trong nhà thì thấy gần cửa có để một cái máy may lau chùi sáng ngời, dựa vách buồng có để một cái tủ kiếng nhỏ, trong tủ có để hàng lụa nhiều màu, lại có mấy gói vuông đẹp đẽ. Trên bộ ván gõ, chỗ dì Hai ngồi thì có treo hai khúc tầm vông láng lẫy, mỗi khúc có áo vắt lòng thòng.
Dì Hai Oanh nói:
– Cách mấy tháng trước, con nhỏ tôi có thưa cho tôi hay rằng ba cậu thấy nó nghèo nên chiếu cố đến nó, muốn kết tình bằng hữu với nó, rồi chúa nhựt hội nhau mà dạy cho nó biết cách ở đời. Nó học ít, mà được hai cậu dạy dỗ thì quí biết chừng nào. Tôi vui lòng mà cho phép nó liền. Đã biết theo lễ nghĩa của Việt Nam mình thì con gái không được gần gũi với con trai như vậy. Nhưng mà tôi nghĩ sanh ở đời nào phải theo phong tục đời ấy. Ở đời nay mà giữ lễ xưa thì bất hợp thời. Đã vậy mà mấy cậu là người học giỏi, lại tôi biết tánh ý con nhỏ tôi, nhứt là nó có đeo chiếc cà rá của mẹ nó đó, thì tôi không cần ái ngại.
Lúc ấy cô Quế đương bưng hai tách nước trà đem lại để trên bàn, chỗ khách ngồi. Xuân với Quan ngó tay cô, thiệt cô đeo một chiếc cà rá vàng nhận hột ngọc đỏ bầm.
Cô Quế bước lui lại đầu ván mà ngồi, tay rờ rẫm, mắt ngó trân vào chiếc cà rá, sắc mặt buồn thảm chớ không vui vẻ như hồi nãy nữa.
Bây giờ trong nhà im lìm, một làn không khí sầu não phảng phất làm cho chủ khách đều không an.
Trong lòng ăn năn về mấy lời nói đó, dì Hai Oanh liền nói tiếp:
– Hễ nhắc tới chiếc cà rá là nó buồn. Hai cậu lại thăm chơi mà tôi vô ý tôi nhắc tới chiếc cà rá nên mất vui.
Cô Quế nói:
– Hột ngọc đỏ gắn trong chiếc cà rá nầy là máu của má con. Dì nhắc tới thì con làm sao vui cho được.
Quan không thể nín được, nên hỏi dì Hai:
– Theo lời của dì Hai và lời của em Quế nói, thì dường như chiếc cà rá mà em Quế đeo đó có một sự tích bí mật. Không biết anh em tôi có nên biết sự tích ấy không?
Cô Quế nói:
- Chiếc cà rá mà con đeo đây là cây nêu, là đèn rọi, để con nhắm mà đi trong đường đời. Dì cứ nói cho hai anh con biết, có hại chi đâu mà ngại.
Dì Hai Oanh ngó hai cậu mà nói:
- Chiếc cà rá đó là chuyện không đẹp trong thân tộc. Nhưng mà hai cậu đã là anh em với cháu tôi, chắc hai cậu biết chuyện không lẽ hai cậu chê cười. Vậy để tôi nói cho hai cậu hiểu. Chị em tôi là con nhà nghèo, từ nhỏ chí lớn phải chuyên nghề may mướn mà nuôi thân. Em tôi, là má của con Quế đây, hồi nhỏ có nhan sắc, ai thấy cũng ngấm nghé. Chúng tôi vẫn biết phận mình nghèo hèn, chúng muốn là muốn chơi qua đường, chớ có ai tính kết nghĩa trăm năm với mình bao giờ. Em tôi biết số phận như vậy, nên nó giữ gìn tới 20 tuổi không chút bợn nhơ. Một lúc nọ, có một người thuộc về hạng thượng lưu chớ không phải điếm đàng du đãng cứ theo dụ dỗ rù quến nó, nói nhân nghĩa nghe hay lắm, mua cho nó chiếc cà rá đó, hứa hễ để vợ xong rồi thì cưới nó. Em tôi tưởng nghĩa trăm năm, không cần dè dặt, nên kết tình với người ấy rồi sanh con Quế đó. Lúc sanh, em tôi nài nỉ người ấy đứng khai sanh dùm cho con Quế có cha. Người ấy nói vì để vợ chưa xong, nên đứng khai sanh thì trái luật, bởi vậy phải đợi để vợ xong rồi thì sẽ ra Tòa mà nhìn nhận con, chẳng muộn gì. Chị em tôi không biết luật, nên tưởng thiệt như vậy, không nghi ngại chi hết, chẳng dè chừng người ấy để vợ được rồi, lại kiếm cớ khác mà nói, cứ lần lựa hoài, không ra Tòa nhìn con Quế là con, mà cũng không đem mẹ con nó về ở chung. Đến chừng con Quế được 10 tuổi, người ấy lần lần không tới lui nữa, rồi sau lại đi cưới vợ, cưới con một ông điền chủ ở dưới vườn, bỏ dứt mẹ con Quế. Em tôi buồn rầu hết sức, ăn ngủ không yên. Một đêm con Quế đương ngủ, em tôi kêu con nhỏ thức dậy khóc mà nói hết sự bạc bẽo của cha nó cho nó nghe, lấy chiếc cà rá đeo vào tay con nhỏ, rồi lấy dao cắt họng mà chết. Em tôi nó trối với con nhiều lắm, làm cho con nhỏ cảm động, nên từ đó đến nay con Quế giữ chiếc cà rá đó hoài, không khi nào rời ra. Thấy gương của mẹ nó như vậy, con Quế nó oán hết đàn ông con trai, mấy năm nay trai nào chọc ghẹo nó đều bị nó từ nan hết thảy. Sự tích chiếc cà rá là vậy đó.
Quan trầm tĩnh, song ngay thẳng, bởi vậy nghe dì Hai Oanh thuật chuyện thì nóng giận không thể dằn được. Chừng dì Hai nói dứt lời, Quan châu mày hỏi: “Thưa dì, ông thượng lưu bạc tình giết đàn bà đó, chừng hay tin ổng có ăn năn hay không?”
Dì Hai lắc đầu đáp:
- Người ta có thèm tới lui gì đâu mà mình biết người ta ăn năn hay không ăn năn.
- Đã được một bài học ở đời rất thảm thương như vậy, ít nữa cũng phải hối hận mà nhìn nhận em Quế là con chớ.
- Không. Có nhìn đâu.
Cô Quế vùng nói lớn:
- Dầu có muốn nhìn đi nữa em cũng không chịu. Một người cha như vậy mà mình nhận là cha làm chi. Không đáng cho mình kêu là người nữa kìa.
Xuân nói:
- Anh kính phục mấy lời em nói đó lắm.
Quan nói với dì Hai Oanh:
- Dì Hai coi hai cháu cũng như con cháu trong nhà, nên mới đem việc gia đình mà nói cho hai cháu biết. Bây giờ anh em cháu được biết sự thống khổ của em Quế, thì anh em cháu lại càng quí trọng kính mến hơn nữa, quí mến thập bội phần.
Dì Hai Oanh nói:
- Xin mấy cậu thương dùm phận nó.
Xuân đứng dậy mà đáp:
- Ba anh em cháu hứa chắc chắn với dì, anh em cháu sẽ tận tâm mà bảo hộ em Quế, bảo hộ luôn luôn, không để ai gạt gẫm em Quế được đâu.
Dì Hai gật đầu cười và nói:
- Cám ơn các cậu.
Xuân và Quan từ mà về, sắc mặt buồn hiu, nhứt là Quan.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Một buổi chiều trời chuyển mưa, mây giăng mù mịt, gió thổi ào ào. Thầy thợ ra khỏi sở, ngó thấy quanh cảnh như vậy thì sợ mắc mưa, nên bươn bả đi riết về nhà. Ngoài đường người ta đi dập dìu, lại thêm xe hơi, xe ngựa, xe máy, chiếc xuống chiếc lên, tiếng chuông leng keng, tiếng còi te tét.
Cô Quế đi thêu ngoài nhà hàng, cô cũng đi về nhà như người ta và cũng như người ta cô đi xăng xớm, bộ như sợ mắc mưa. Thế mà cô không đi thẳng về nhà, cô lại ghé vô nhà cậu Xuân. Thấy cửa giữa đóng chặt, cô lại đứng chỗ cửa sổ mà kêu thằng Chí.
Chị Chín Thiện ra mở cửa và nói:
- Cô Hai đi thêu về sớm dữ. Thằng Chí mới đi ra chợ mua bánh mì. Cô Hai cần dùng nó đi đâu hay sao?
Cô Quế mau mắn đáp:
- Không, không… Anh Xuân chưa về hay sao?
- Thưa, chưa. Cậu tôi đi thi trong trường.
- Tôi biết… Thi đã cả tuần rồi chớ. Bữa nay vô trường đặng nghe xướng danh coi đậu hay rớt, sao tới chừng nầy mà chưa về!
- Tôi cầu khẩn cho cậu tôi đậu.
- Tôi cũng mong ước như vậy. Tôi vái van cho đậu hết, nếu có người nào rớt tôi buồn dữ lắm.
- Mời cô hai vô nhà chơi. Tối rồi chắc cậu tôi gần về…
- Dì đi nấu cơm đi dì Chín. Để tôi đứng ngoài nầy tôi chơi một chút.
Chị Chín trở vô bếp, cô Quế đứng trước hàng ba ngó ra đường có ý trông cậu Xuân.
Thằng Chí đi chợ về, tay cầm một ổ bánh mì.
Cô Quế thấy nó bước vô thì nói:
– Em coi nhà nghe không em Chí. Để qua về một chút rồi qua trở lại.
Thiệt quả cô về chẳng bao lâu thì cô lại nữa.
Bây giờ trời đã tan mây lặng gió. Thằng Chí thấy đã tối rồi, nên vặn đèn trong nhà cho sáng. Thế mà cô Quế không vô, cô đứng trên thềm nhà ngó mông, bỗng thấy Xuân với Triều đằng xa đi lại, bộ đi chậm rãi dường như không muốn tới nhà cho mau.
Cô Quế nóng nảy, muốn hay tin liền về cuộc thi, nên cô bước ra đường mà đón hai cậu. Chừng hai người đi gần tới thì cô lật đật hỏi: “Đậu hay không?”
Triều lắc đầu và chúm chím cười và đáp:
– Rớt!
– Hả? Rớt hết sao?
– Rớt hết!
– Trời ơi! Anh Quan cũng rớt nữa à?
– Quan mà rớt sao được. Nó đậu mà còn được lời khen của ban giám khảo nữa chớ.
Ba người đắt nhau vô nhà.
Xuân buồn hiu, quăng cái nón lên bàn rồi nằm ngửa trên ghế xích đu, mắt lim dim, không nói một tiếng chi hết, Triều quay máy hát dĩa “Trảm Trịnh Ân”, đứng hát tự nhiên, dường như không quan tâm đến việc thi rớt.
Cô Quế thấy cậu Xuân buồn thì nói:
– Người ta thường nói “Học tài thi mạng”. Kỳ nầy rủi rớt thì ráng học thêm nữa đặng kỳ sau thi lại. Phải kiên nhẫn, phải cố gắng, phải phấn chí luôn luôn, chẳng nên ngã lòng.
Xuân cứ nằm thiêm thiếp. Triều cứ đứng nghe máy hát.
Cô Quế muốn giải nỗi buồn cho hai cậu, cô bèn bước lại ngừng máy hát, mời Triều ngồi, kêu thằng Chí biểu dọn cơm. Cô đi lăng xăng, cô nói không ngớt chớ không tề chỉnh nghiêm nghị như trước nữa.
Thấy Xuân cứ nằm trơ trơ, cô mới kêu mà nói:
– Anh Xuân dậy đi thay đồ rửa mặt rồi ăn cơm chớ. Em có thưa cho dì em rồi, bữa nay em ở đàng nầy đặng em ăn cơm với anh. Em đói bụng quá, dậy ăn cơm đặng em ăn với chớ.
Triều nói tiếp:
– Dậy ăn cơm toa, Xuân. Moa cũng đói bụng nữa.
Xuân thủng thẳng đứng dậy mà nói:
- Tôi hết muốn ăn cơm.
Cô Quế cười và nói:
- Trời ơi! Thi rớt rồi tính tuyệt thực hay sao? Làm trai mà yếu trí quá vậy? Thanh niên tân học ta phải có trí kiên nhẫn, có óc hùng cường. Đường đời đương nhiên có chông gai nhiều, mình phải lập thế tránh mà đi tới nơi tới chốn mới hợp. Đã biết thi rớt là một việc trắc trở đáng tiếc lắm. Nhưng mà sự trắc trở ấy nhỏ mọn không đáng cho mình sầu não. Thi rớt thì học thêm đặng thi lại, học hoài cho tới thi đậu mới nghe. Phải có cái trí như vậy mới được. Làm trai nếu gặp việc khó khăn rồi buồn rầu thất trí như thế có hơn đàn bà con gái chỗ nào đâu!
Có lẽ mấy lời cứng cỏi ấy làm cho Xuân hoặc phấn chí hoặc hổ thầm, bởi vậy cậu mau mau đi rửa mặt không ngẩn ngơ dã dượi nữa.
Triều ngồi hút gió rồi nói:
- Ai học nữa thì học, tôi xin kiếu; về cưới vợ, rồi làm ruộng đặng làm giàu đi xe hơi chơi.
Thình lình Quan từ ngoài bước vô nói:
- Hai anh rớt, tôi buồn quá, phải hai anh đậu hết tôi mới vui.
Cô Quế mừng nói:
- Em nghe anh đậu, em vui quá. Em mừng cho anh.
- Cảm ơn em.
- Anh Xuân với anh Triều nãy giờ buồn hiu. Em xin anh ở ăn cơm nói chuyện cho hai anh đó bớt buồn một chút.
- Thình lình quá, đâu có cơm sẵn mà ăn.
- Có mà. Để em sắp đặt mà mua đồ ăn thêm.
Cô Quế bỏ ba cậu ở ngoài nói chuyện, cô đi vô trong lo bữa cơm. Cách độ một hồi cô trở ra mời ba cậu đi ăn cơm, đồ ăn đã dọn đủ hết. Bốn người ngồi ăn cũng theo thứ tự Mai, Lan, Cúc, Trúc.
Triều hỏi Xuân:
– Bây giờ toa tính sao đây Xuân? Toa nói nghe thử coi.
– Tính giống gì?
– Toa nghe lời em Quế toa học nữa hay sao?
– Moa chưa nhứt định, để suy nghĩ ít bữa rồi sẽ hay.
– Moa tính như vầy hay lắm toa. Toa về Cần Thơ mà ở, moa về Bạc Liêu moa xin với tía moa kiếm hai cô con gái con nhà giàu, nói mà cưới vợ cho hai anh em nhà mình, rồi mình lo làm ruộng, buôn lúa, đặng làm nhà giàu.
– Moa không có chí làm nhà giàu.
– Toa cứ tính chuyện viễn vông hoài!
– Không phải viễn vông. Thuở nay moa đi học, moa quyết học thành tài, đặng moa dùng tài học cùa moa mà mở trí đồng bào, cải lương xã hội, làm cho quốc dân cao thượng, làm cho nước nhà chấn hưng. Moa đã nói với toa, moa nhứt định không cưới vợ mà moa cũng nhứt định không làm giàu. Vậy toa muốn làm việc gì thích ý toa, toa cứ làm, đừng rủ moa.
– Toa thích làm việc minh mông, đã mệt trí lại không ích gì cho toa hết.
– Nếu mỗi người đều chỉ biết lo cho mình, xã hội còn ra gì nữa. Moa giận rồi, có lẽ moa phải đi Pháp mà học.
– Tự ý toa. Moa chỉ xin nhắc cho toa nhớ rằng lúa gạo là vật báu trời ban cho xứ mình có nhiều. Vậy mình cứ níu cái hạnh phúc ấy mà sống, chẳng cần phải lo minh mông cho nhọc trí.
– Cái tâm hồn của toa là tâm hồn nhà quê. Toa không thể hiểu chí hướng của moa nổi. Đừng có nói chuyện ấy với moa nữa.
Triều rùn vai mà hỏi Quan;
- Quan, toa thi đậu rồi bây giờ toa tính làm việc gì?
- Có lẽ tôi sẽ kiếm chỗ mà làm việc nhà nước.
- Làm việc gì?
- Biết đâu. Để đợi cơ hội mở kỳ thi vào ngạch công chức nào thì tôi sẽ lập đơn dự thi chớ bây giờ biết đâu mà nói trước được.
Xuân liền nói với Quan:
- Toa đi Tây mà học thêm với moa.
- Ồ! Phận tôi nghèo, tôi đâu dám đèo bồng quá như vậy.
- Moa còn ba mươi bảy ngàn bạc gởi dưới băng. Số bạc ấy không đủ cho hai đứa mình ăn học bên Pháp năm mười năm hay sao? Toa đi với moa thì moa bao cho toa.
- Cảm ơn. Phận tôi mẹ góa con côi, tôi không thể tính việc xa vời.
- Toa là người không có đại chí, toa không có lợi ích cho nước nhà chi hết.
- Ở đời mình làm việc chi cũng phải lượng sức mình chớ.
- Moa tiếc cho toa lắm, tiếc vì tài lớn mà chí nhỏ. Chớ chí toa mà chí lớn như moa, thì toa quí không biết chừng.
Bây giờ cô Quế mới xen vô:
- Ba anh mỗi người có một chí riêng, không ai giống ai hết. Mới có ba người, lại là ba anh em thân thiết với nhau, mà cũng chưa đồng tâm được, thế thì mười mấy triệu đồng bang làm sao mà hiệp ý cùng nhau.
Mấy lời của Quế đây là lời bình luận nghe chơi cho vui, chớ không có ý chê bai hay nhạo báng. Thế mà ba cậu trai nghe qua, dường như ăn năn hay hổ thầm nên liếc mắt ngó nhau rồi ngồi gầm mà ăn không nói thêm một tiếng chi nữa hết. Có lẽ lời bình phẩm ấy động tới Xuân nhiều nhứt, bởi vì Xuân châu mày cúi mặt trầm tư nghiêm nghị lắm, làm cho không khí thêm nặng nề.
Cô Quế dòm thấy cái lỗi của cô, thì cô ăn năn muốn kiếm thế mà gây cuộc vui vẻ lại, song cô không tìm ra chước, bởi vậy khoảng sau bữa ăn có vẻ lãng đạm đìu hiu.
Ăm cơm rồi, Triều với Quan từ giã đi vô trường lo sửa soạn hành lý đặng sáng mai đi về nhà. Xuân với cô Quế đưa ra cửa. Chừng hai cậu đi rồi, cô Quế thấy Xuân có sắc trầm tư bèn hỏi cậu:
- Anh nhứt định đi qua Pháp học nữa hay sao?
- Đó là con đường qua chọn lâu rồi. Trước sau gì rồi qua cũng phải theo con đường ấy. Vậy nên đi liền bây giờ thì phải hơn.
- Nếu anh có trí un đúc cho có tài cao, thì anh qua Pháp mà học là phải. Học cho thiệt cao mới có ích.
- Em đồng ý với qua hay sao?
Cô Quế nhếch miệng cười rất có duyên; tuy ngoài hàng ba không có đèn, song Xuân thấy cô ngước mắt ngó mình và nói:
- Không phải em đồng ý. Vì anh có chí như vậy nên em phải trưởng chí cho anh chớ.
Xuân thở dài mà nói:
- Cảm ơn em.
Cô Quế muốn nói chuyện nữa, nhưng cô nghĩ thế nào không rõ, cô đứng dụ dự rồi nói:
- Thôi, để em về cho anh nghỉ. Em chào anh.
Cô Quế bước xuống thềm. Xuân đứng ngó theo tư lự châu mày.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện