-
-
Tuỳ chỉnh
Font chữ
Palatino
Times
Arial
Georgia
Khi Chiêu Thành Vương dựng cờ lên thì trai tráng kéo đến dưới cờ đông như hội. Những người đã theo về với Hoài Văn cũng chạy cả sang hàng ngũ Chiêu Thành Vương. Sắp xếp đội ngũ xong, Vương cất quân rầm rộ lên đường.
Hoài Văn nói với người tướng già:
- Trai tráng đi theo chú hết rồi. Lấy đâu ra quân nữa?
Người tướng già nói:
- Người thì có bao giờ hết được? Muốn cho người ta tin theo, phải có danh chính ngôn thuận. Cứ như ý tôi, ta phải chịu khó đi vào các thôn xóm nói rõ cho mọi người biết được nghĩa lớn. Dân gian ai chẳng có lòng trung quân ái quốc? Tôi được biết ở Võ Ninh ta có nhiều bô lão được thiên tử vời về điện Diên Hồng hỏi kế, ta nên gặp những người ấy. Các cụ đã quyết chí đánh giặc, há lại không gióng giả bảo người trong họ ngoài làng theo về với vương tử hay sao? Lo gì không có quân!
Quốc Toản mừng lắm, nói:
- Ông đã vén cho ta một đám mây mờ.
Từ đấy, ngày nào Hoài Văn cũng xuống các thôn xóm, vận động bà con đứng lên cứu nước. Một hôm, đã khuya lắm, Hoài Văn còn chong đèn trên lầu. Quốc Toản nghĩ: "Chú ta dựng cờ lên là thiên hạ nô nức đến. Ta cũng phải có một lá cờ. Lá cờ nêu rõ chí ta". Suốt từ chập tối đến canh hai, Hoài Văn tự hỏi: "Ta sẽ viết chữ gì trên lá cờ của ta? Chữ đề phải quang minh chính đại như ban ngày. Chữ đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho kẻ địch kinh hồn". Trống đã điểm canh ba. Mắt Hoài Văn bỗng rực sáng, toàn thân như bừng bừng cháy. Tay Hoài Văn giơ lên như đang phất một lá cờ. Hoài Văn thét lớn:
- PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN.
Hoài Văn nhẩm đi nhẩm lại:
- Phá cường địch, báo hoàng ân. Báo hoàng ân, phá cường địch. Phá cường địch...
Chàng gật gù, sung sướng. Sáu chữ đối nhau chan chát, lời đanh thép, ý hùng hồn. Chàng lấy hết gân tay viết sáu chữ lên một tờ giấy điều. Chàng mơ màng thấy lá cờ sáu chữ tung hoành trên các trận, và chàng thì đang trỏ giáo, vung gươm chém đầu tướng giặc. Hoài Văn định nhảy xuống lầu để khoe với người tướng già sự khám phá mới mẻ của mình thì chợt có tiếng chân bước nhẹ lên lầu. Quốc Toản nhìn ra thì chính là mẹ. Chàng chìa tay đỡ mẹ lên. Phu nhân khẽ hỏi:
- Sắp sáng rồi, sao con thức khuya thế? Mẹ thấy con ngày một võ vàng. Áo đâu mà phong phanh thế kia?
Quốc Toản có gầy đi nhiều. Hầu lại chỉ mặc một áo lót mỏng, vì Hầu muốn luyện cho mình thành một người có thể dãi gió dầm mưa, chịu đựng được mọi nỗi vất vả của sa trường. Quốc Toản đỡ mẹ ngồi lên kỷ và thưa:
- Con để mẹ phải lo nghĩ, con thật mang tội bất hiếu. Nhưng giặc sắp kéo sang, có muốn ở yên cũng không được. Phải tập khổ cho quen đi.
Phu nhân cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay con. Trên tờ giấy viết sáu chữ lớn: "Phá cường địch, báo hoàng ân", nét bút gân guốc. Phu nhân không nói, lặng nhìn sáu chữ, mừng thầm cho con có chí khác thường. Quốc Toản nói:
- Con muốn dựng một lá cờ đề sáu chữ này để chiêu binh mãi mã. Nay mai ra trận, con sẽ phất lá cờ ấy thề sống chết với quân thù. Mẹ may cho con lá cờ ấy nhé. Đến khi xông pha chiến trận, con nhìn lá cờ là thấy được mẫu thân.
Phu nhân xoa đầu con, và Hoài Văn gục đầu lên gối mẹ. Phu nhân nói:
- Mẹ đã không giữ con ở nhà, thì làm gì không may nổi cho con một lá cờ. Thôi, con ngủ đi. Sáng rồi!
Phu nhân dắt Quốc Toản đến giường, bảo nằm xuống, kéo chăn đắp lên mình con. Người mẹ cầm ngọn đèn, nhẹ bước xuống lầu. Trở về phòng riêng, phu nhân chong đèn, lúi húi thêu sáu chữ bằng những sợi chỉ vàng trên một tấm lụa đỏ thắm.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Mấy hôm sau, trước dinh cũ của đại vương, cha Trần Quốc Toản, một lá cờ được dựng lên. Lá cờ đỏ đề sáu chữ vàng rực rỡ: PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN.
Khắp nơi xa gần, người ta kháo nhau về lá cờ. Người ta khâm phục Hoài Văn tuổi nhỏ mà có chí lớn. Một ông lão dắt hai chàng trai trẻ đến trước dinh, vái Hoài Văn rồi chỉ vào hai người con trai và nói:
- Một thằng là con út, một đứa là cháu nội lão, chúng nó đều trạc tuổi vương tử. Hai đứa đều mộ tiếng Hoài Văn Hầu, muốn cầm roi theo gót ngựa. Lão đã được về kinh, lão đã quyết một lòng đánh giặc. Chỉ vì sức yếu mà không đi được, nhưng đã có con cháu đi thay. Mong Hoài Văn Hầu thu nhận. Lão xin chúc vương tử phen này ra quân, ngựa bước tới đâu thành công đến đấy.
Từ đấy, có nhiều người đến dưới cờ xin đi theo Quốc Toản, phần lớn đều cùng một lứa tuổi với chàng. Trần Quốc Toản cùng những người bạn mới say mê luyện tập võ nghệ và học cách bài binh bố trận. Chẳng bao lâu Hoài Văn đã nhảy qua được cái hố dài hai trượng, lòng hố tua tủa những bàn chông. Một hôm, chàng chỉ một đàn sáo bay trên trời và nói với mọi người:
- Ta bắn rơi con thứ ba nhé!
Và chàng giương cung bắn, và con sáo thứ ba rơi xuống.
Nhưng số người đi theo Hoài Văn tính ra chỉ vẻn vẹn được có sáu trăm. Thấy Hoài Văn lo ngại, người tướng già nói:
- Quân quý giỏi, không quý nhiều. Ta chỉ có sáu trăm quân, nhưng anh em đều có chí vẫy vùng, ra đi không bận thê noa. Họ tập luyện nhanh nhẹn, bảo một biết hai. Ai nấy đều mong chóng đến ngày đền ơn vua nợ nước. Chỉ xin vương tử coi họ như anh em, không phân biệt sang hèn, họ sẽ coi vương tử như ruột thịt. Trên dưới một lòng thì đánh đâu thắng đó.
Hoài Văn khen phải. Người tướng già sắp xếp sáu trăm người vào cơ nào đội ấy, tề chỉnh như quân của đại vương xưa.
Quốc Toản đi khắp các cơ, các đội, ăn với họ một mâm, nằm với họ một chiếu, ngày thì cùng nhau tập luyện, đêm thì cùng học binh thư. Họ sống với nhau như anh em một nhà, tình nghĩa mỗi ngày một thắm thiết. Phu nhân xuất tiền may quần áo, sắm khí giới cho đoàn quân trẻ tuổi. Dân gian khắp vùng Võ Ninh mộ tiếng đoàn quân, người cúng ngựa tốt, người biếu trâu bò, người mang tiền, gánh gạo đến khao quân. Người ta đua nhau đánh thêm dao, thêm kiếm cho Hoài Văn. Các bễ lò rèn không nghỉ. Tiếng búa tiếng đe rầm rập đêm ngày.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Một năm đã qua.
Thế rồi một hôm, Hoài Văn đang luyện tập với sáu trăm gã hào kiệt, thì có tin đồn thái tử nhà Nguyên là Trần Nam Vương Thoát Hoan, thống lĩnh năm mươi vạn binh mã, đã phạm vào cửa ải. Quan quân đã giao chiến với giặc.
Sáu trăm người hoa chân múa tay, xin Hoài Văn gấp gấp lên đường.
Một buổi sáng tháng chạp rét như cắt. Mây xám phủ đầy trời. Gió rít lên từng trận. Giữa bãi tập, lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng tung bay ngạo nghễ, xua tan không khí ảm đạm. Trên đàn đất đắp cao bày một hương án. Trên hương án, trầm hương toả khói thơm. Hai bên đàn, sáu trăm gã hào kiệt đứng nghiêm chỉnh, chống những cây giáo thẳng, đều tăm tắp, mũi nhọn sáng ngời. Mọi người đều nín thở. Trong im lặng, chiêng trống bỗng rung lên.
Khăn áo chỉnh tề, Hoài Văn bước lên đàn cao, quỳ trước hương án. Người tướng già thắp thêm hương, đốt thêm trầm. Hoài Văn lầm rầm khấn trời đất phù hộ nước Nam, và dõng dạc đọc lời thề, phỏng theo những lời thề mà chàng đã nghe quan gia đọc ở đền Đồng Cổ tại kinh thành:
- Chúng tôi, sáu trăm nghĩa sĩ, tình như ruột thịt, nghĩa tựa keo sơn, thề đồng tử đồng sinh, đuổi giặc cứu dân. Ai bất nghĩa, bất trung, xin trời tru đất diệt!
Sáu trăm hào kiệt đọc lời thề:
- Ai bất nghĩa, bất trung, xin trời tru đất diệt!
Và họ uống máu ăn thề. Họ nhìn lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng, lòng họ bừng bừng, tay họ như có thể xoay trời chuyển đất. Đêm hôm ấy, đã khuya lắm, người ta vẫn còn nghe thấy những tiếng mài gươm.
Sáng hôm sau, Hoài Văn Hầu dậy sớm, lên nhà trên từ biệt mẹ già:
- Con đi phen này đã thề sống chết với giặc. Bao giờ đất nước thanh bình, bốn phương bể lặng trời im, con mới trở về. Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để cho con được yên lòng xông pha trận mạc.
Hoài Văn lạy mẹ. Phu nhân quyến luyến không muốn chia tay, nhưng phu nhân không sa nước mắt. Phu nhân nói:
- Con đi vì nước, nên mẹ chẳng giữ. Mẹ chỉ có một mình con đây. Mẹ mong con chóng ca khúc khải hoàn, mẹ con ta lại được sớm cùng nhau sum họp.
Đây là lần thứ hai trong đời, Hoài Văn xa mẹ. Lần trước về kinh thành, chỉ là một chuyến đi chơi. Lần này mới thật là đi xa, không biết bao giờ trở lại. Lòng Hoài Văn bỗng thấy nao nao thương mẹ.
Nhưng chiêng trống bên ngoài đã nổi rộn ràng. Hoài Văn lạy mẹ một lần nữa, vén mành bước ra sân khi ấy còn tối mờ mờ.
Hoài Văn Hầu mặc áo bào đỏ, vai mang cung tên, lưng đeo thanh gươm gia truyền, ngồi trên một con ngựa trắng phau. Chàng giữ vẻ uy nghi của một vị chỉ huy. Theo sau Hoài Văn là người tướng già, mặt sạm đen vì sương gió, chòm râu dài trắng như cước. Tiếp sau là sáu trăm gã hào kiệt, nón nhọn giáo dài. Đoàn quân hùng hổ ra đi trên con đường cái nhỏ, hai bên là đồng không mông quạnh. Tiếng chiêng tiếng trống rập rình.
Đoàn quân đã đi xa. Bà con ra tiễn vẫn còn trông thấy lá cờ đỏ đề sáu chữ vàng mở đường đi trước. Lá cờ căng lên vì ngược gió.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Lá cờ thêu sáu chữ vàng mỗi lúc một căng lên vì ngược gió.
Sáu trăm gã hào kiệt đi tìm quan quân.
Nhưng quan quân ở đâu? Họ không biết nữa.
Hoài Văn nói:
- Bây giờ dù có tìm được quan quân, quan quân lại đuổi về thôi. Chẳng bằng ta đi tìm giặc, đánh vài trận cho người lớn biết tay anh em ta đã.
Sáu trăm gã thưa:
- Vương tử nói phải. Ta đi tìm giặc mà đánh.
Và họ tiến theo hướng bắc. Và lá cờ đỏ căng lên vì ngược gió. Những cánh đồng Võ Ninh đã hết. Họ tiến vào vùng đồi đất. Chẳng mấy chốc, đồi đất cũng lùi xa. Họ lọt vào giữa rừng núi. Rừng mỗi lúc một rậm, núi mỗi lúc một cao, suối mỗi lúc một nhiều, dân mỗi lúc một thưa. Họ cảm thấy càng đi lên càng gần mặt trận. Lòng họ vui như tết. Nhưng đi đã mấy ngày đêm liền, họ vẫn chẳng thấy tăm hơi giặc. Mắt chỉ thấy núi rừng âm u. Tai chỉ nghe tiếng hoẵng kêu, vượn hú.
Một buổi chiều, sau một ngày lội suối trèo đèo vất vả, sáu trăm gã hào kiệt đổ vào một cánh đồng rộng, núi vây bốn phía. Lưng chừng núi, lác đác mấy xóm thổ dân.
Hoài Văn cho mọi người nghỉ dưới chân một ngọn núi cao và chuẩn bị cơm nước. Bỗng nổi lên những tiếng trống dồn dập. Từ trên lưng chừng núi, nỏ bắn xuống như mưa. Đoàn quân giật mình ngơ ngác, nấp vào trong các bụi, các hốc. Hoài Văn thét:
- Đội ngũ hãy chỉnh tề, theo ta giết giặc lập công.
Hoài Văn ngồi trên mình ngựa, dưới lá cờ sáu chữ. Chàng hỏi người tướng già cưỡi ngựa đứng bên:
- Quan quân ở đâu để giặc đến đây rồi?
Nhưng người tướng già có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Hoài Văn nhìn lên núi, thấy lấp ló trong rừng rậm những bóng người áo xanh, nón rộng, lưng đeo đao lớn. Chúng thét lên những tiếng hãi hùng. Chúng nhấp nhổm như sắp đánh xuống. Hoài Văn ra lệnh:
- Chờ cho quân giặc xuống gần, hãy nhất tề xông lên mà đánh.
Nỏ vẫn bắn xuống rào rào. Trên núi, bỗng có một người đứng thẳng lên, dáng cao lớn hơn những người khác. Áng chừng đấy là thủ lĩnh của chúng nó. Nó kêu mấy tiếng rùng rợn, và quân áo xanh leo xuống, nhẹ như bay. Hoài Văn giương cung lắp tên định bắn tên thủ lĩnh.
Người tướng già giữ lại và nói:
- Khoan đã. Chưa chắc đã phải là giặc.
- Không phải giặc sao lại bắn ta?
- Họ biết ta là ai mà chả bắn? Tôi theo đại vương đi chinh chiến khắp đông tây nam bắc, đã nhiều phen ở lẫn với những người Thổ, Mán. Tôi đã nhìn kĩ những người trên ngọn núi này. Đấy là những người Mán, không phải là giặc đâu. Vương tử cho dựng cao lá cờ lên để họ nhìn cho rõ. Tôi xin lên thương thuyết với họ.
Hoài Văn ngăn lại:
- Ông làm sao thì ta trông cậy vào ai?
Người tướng già cười:
- Người mình với nhau, có gì mà đáng lo!
Người tướng già xuống ngựa, đi bộ lên núi, tay thì giơ mộc đỡ những mũi tên nỏ bắn tới tấp chung quanh, miệng thì không ngớt gọi to bằng tiếng Mán. Hoài Văn truyền dựng lá cờ cho thật cao, và bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi sự bất trắc. Sáu trăm gã hồi hộp nhìn lên núi. Người tướng già vẫn vừa leo vừa gọi. Người tướng già đã tới trước mặt viên thủ lĩnh. Họ đã nói chuyện với nhau. Theo ngón tay chỉ của người tướng già, người cao lớn nhìn xuống chân núi, đầu gật gật làm cho cái nón rộng vành hất lên hất xuống. Hoài Văn luồn cung vào vai và nói:
- Không phải giặc rồi, chút nữa thì lầm to!
Người tướng già đi trước, viên thủ lĩnh theo sau, cả hai xuống núi. Tới trước ngựa Hoài Văn, viên thủ lĩnh nói một tràng tiếng Mán. Người tướng già nói:
- Ông ta mời vương tử lên núi đấy.
Viên thủ lĩnh là một người đã ngoài bốn mươi, to lớn vạm vỡ, mắt sắc, râu thưa, nước da cháy đen, mặt cứng như đá. Mình mặc áo chàm, chân đi giày cỏ. Cử chỉ thì vụng về chậm chạp. Người tráng sĩ Mán tự xưng là Nguyễn Thế Lộc, chủ trại Ma Lục, thuộc đạo Lạng Giang.
Hoài Văn cho quân nghỉ ngơi ăn uống, rồi theo Thế Lộc lên núi. Trời vừa sập tối. Sương toả mịt mù. Trại của người tráng sĩ là một động đá rộng, khí lạnh thấu xương. Mấy ngọn đuốc bằng nhựa trám hắt một thứ ánh sáng lờ mờ, làm cho không khí của động càng huyền ảo. Lố nhố những người ngồi, người đứng, thảy đều mặc áo chàm, đi giày cỏ. Người nào cũng lực lưỡng gân guốc, im lìm như đá cả. Họ nhìn những người khách mới đến, chẳng chào hỏi một câu. Trên các vách đá, treo cung tên và những con dao to bản, sáng quắc. Lẫn trong đám những người áo chàm, có bốn năm người có vẻ lanh lợi, sắc sảo. Xem cách ăn mặc của họ, Hoài Văn đoán đấy là lính của triều đình. Trông thấy Hoài Văn, họ có vẻ nửa mừng nửa sợ. Hoài Văn hỏi:
- Những người này là thế nào?
Họ tái mặt. Một người thưa:
- Bẩm, Ngài có phải vâng lệnh Quốc công Tiết chế lên đây cứu viện không?
- Giặc ở đâu mà phải cứu viện? Các người thuộc đạo quân nào mà lại ở đây?
Họ run bắn người lên không nói. Những người Mán vẫn chẳng nói chẳng rằng. Người tướng già rỉ tai Hoài Văn:
- Chủ trại cho biết thế giặc to lắm, đi đến đâu quan quân vỡ đến đó. Chung quanh đây, giặc đã đóng cả rồi. Ta đã lọt vào giữa vòng vây của giặc. Những người lính này lạc đường chạy vào trong này, tạm nương nhờ người Mán, rồi sẽ tìm đường về gặp quan quân.
Quốc Toản nổi nóng quát to:
- Giặc mới đến đã chạy. Để các người làm gì? Sống cũng chỉ ăn hại thiên hạ mà thôi!
Chàng tuốt gươm toan chém mấy người lính. Người tướng già giữ tay Hoài Văn, nói:
- Xin vương tử hãy bớt nóng. Hãy nghe chủ trại kể chuyện đầu đuôi sự tình đã.
Mặt Hoài Văn vẫn hầm hầm. Thế Lộc mời Hoài Văn ngồi lên phiến đá cao, còn mình thì ngồi trên một hòn đá thấp. Gió ở bên ngoài gào rít, rung động cả núi rừng. Những ngọn đuốc trong động khi mờ khi tỏ, bốc khói ngùn ngụt. Thế Lộc bập bẹ nói tiếng Kinh, giọng nói cộc lốc, không kiêng dè, mạnh như dao chém thớt. Theo lời Thế Lộc thì tình thế rất rối ren. Quân Nguyên đã vượt cửa ải, kéo đến Lộc Châu. Quan quân chặn giặc ở núi Kheo Cấp, nhưng giặc lại tiến đánh úp ải Khả Ly. Quan quân chống cự không nổi, đã phải rút về. Đại quân của Thoát Hoan đóng khắp Lạng Giang. Thế Lộc nói:
- Nó thả quân đi cướp trâu, cướp ngựa. Cỏ nó cũng cướp.
Hoài Văn hỏi:
- Nó đến thì Thế Lộc định thế nào?
Đôi mắt xếch của Thế Lộc mở rộng, dữ dội một cách khác thường. Không nói gì, Thế Lộc vớ một con dao to bản chém mạnh vào một hòn đá, làm cho lửa toé lên. Thế Lộc nhìn hòn đá vỡ, dằn tiếng:
- Nó vào thì tao chém nó thế này lố!
Hoài Văn cười khanh khách, tay vỗ mạnh lên tấm vai u của Thế Lộc:
- Thế Lộc ở nơi sơn dã mà có lòng trung nghĩa, thật là phúc cho nước nhà. Ta đang đi tìm giặc để mổ ruột moi gan nó, may sao được gặp tráng sĩ của xứ lâm tuyền. Ông biết giặc ở đâu, ta cùng đi đánh giặc.
Từ lúc gặp Quốc Toản, Thế Lộc không hề cười. Hình như người Mán ấy không cười bao giờ. Thấy Hoài Văn cười lớn, Thế Lộc chỉ ngồi lim dim mắt, thỉnh thoảng khẽ vuốt chòm râu thưa. Đến đây, Thế Lộc gật đầu, nói:
- Có thêm mày lên đây, tao thích lắm. Mày đi đường có mệt không? Tao cho ăn cơm rồi đi ngủ. Ngày mai, tao dẫn mày đi tìm giặc đánh.
Thế Lộc bảo người nhà dọn cơm rượu khoản đãi Hoài Văn. Ngồi tiếp rượu người khách trẻ tuổi, Thế Lộc nói:
- Tao trông thấy sáu chữ của mày, tao chưa đánh đấy. Chứ mày là giặc thì không thoát được tao đâu. Tao chưa bắn tên thuốc độc, tao chưa ra lệnh bật bẫy đá. Trên sườn núi, chỗ nào tao cũng có bẫy đá.
Hoài Văn nghĩ một người ở nơi thâm sơn cùng cốc này còn biết lo việc đánh giặc, cớ sao quan quân lại bỏ chạy? Chẳng đáng thẹn lắm ru? Hoài Văn uống cạn một bát rượu Mán. Người nóng bừng bừng. Đêm hôm ấy, nằm trong hang đá lạnh, không màn, không chiếu, Hoài Văn ngủ không yên giấc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Tinh mơ hôm sau, Hoài Văn đã trở dậy. Thế Lộc nai nịt gọn ghẽ theo Hoài Văn ra khỏi động. Ngoài động, các tráng sĩ áo chàm tấp nập đặt thêm những bẫy đá. Họ reo hò lăn thử những tảng đá cực kì to lớn xuống chân núi. Đá lăn ầm ầm như sấm động gió gào. Thế Lộc chỉ những cây cối gãy ngổn ngang và nói:
- Giặc có khoẻ bằng mấy cây kia không?
Hoài Văn ngắm nghía từng cái bẫy, luôn miệng khen ngợi người tráng sĩ của nơi rừng xanh núi đỏ. Chợt lại thấy mấy người Mán ngồi bện một hình người cỏ, Hoài Văn hỏi Thế Lộc:
- Bện làm gì đấy?
- Mày làm tướng mà không biết gì cả. Quân tao ít thì tao phải làm người cỏ cho nó nhiều chứ!
Hoài Văn say sưa ngắm nhìn người cỏ trong cái thế đang giương cung định bắn. Bện xong hình người cỏ, mấy tráng sĩ Mán đem đặt sau một lùm cây rậm. Họ giật dây, hình người cỏ cử động như người thật vậy. Hoài Văn càng thêm hào hứng, quay bảo người tướng già:
- Ngày xưa, nước ta có Lý Ông Trọng là một thần tướng thân cao mười trượng. Ngài được cử sang giúp nhà Tần dẹp loạn Hung Nô. Hễ trông thấy Ngài là quân Hung Nô mất vía. Khi Ngài mất, nhà Tần thương tiếc sai làm tượng to lớn như người thật. Quân Hung Nô lại sang, vua nhà Tần cho khiêng tượng tới. Giặc tưởng Ngài còn sống, chạy như chuột. Nay ta cũng nên bện một hình nhân to lớn như đức Thánh Chèm, giặc Nguyên trông thấy tất phải vỡ mật.
Người tướng già nói:
- Vương tử nói rất hợp ý tôi. Tôi biết giặc Nguyên cần cỏ cho ngựa như cần lương thực. Cánh đồng Ma Lục nhiều cỏ, thế nào chúng cũng mò đến. Ta dử chúng vào đấy, dùng mưu mà đánh. Nhất định thắng to. Ta nên làm như thế này...
Người tướng già rỉ tai nói thầm với Hoài Văn và Thế Lộc. Hoài Văn gật đầu, cười lớn:
- Phải đấy. Phải đấy.
Tức thì quân sĩ của Hoài Văn Hầu và các tráng sĩ của Thế Lộc vào rừng đốn gỗ, đốn tre nứa. Họ xúm vào đan một hình thần tướng, cao hơn vựa thóc, lớn hai người ôm. Mặt thần tướng đen như lòng chảo, râu xồm quai nón, mắt ốc nhồi mở trừng trừng nhìn xuống cánh đồng. Thần tướng giương một cái nỏ to như một thuyền nan, mũi tên dài như ngọn giáo. Đứng ở dưới cánh đồng nhìn lên, thấy thần tướng sát khí đằng đằng, tướng mạo kì quái, dữ tợn.
Thế Lộc bỗng chỉ một cây đa cổ thụ ở dưới cánh đồng, cành lá xùm xoà vùng ra chung quanh rộng như cái ao lớn. Thế Lộc nói với Hoài Văn:
- Tao bàn thế này với mày. Có thần tướng kia, thì phải có tên thần, mới đánh lừa được cái thằng giặc lố.
Hoài Văn mừng rỡ, tay vỗ mạnh vào lưng người Mán:
- Ta có ngờ đâu, nơi sơn dã cũng ẩn những tướng tài. Thế Lộc giỏi! Thế Lộc giỏi lắm!
Người ta leo lên ngọn cây đa cao chót vót, đục thủng một cành lớn đến một người ôm không xuể. Người ta luồn qua lỗ đục một khúc gỗ đẽo thành hình một mũi tên khổng lồ. Sáu bảy cây cổ thụ khác dưới cánh đồng đều bị những mũi tên thần xuyên thủng như vậy. Sáu trăm gã và những tráng sĩ Mán say sưa hết nhìn thần tướng trên núi lại ngắm những mũi tên xuyên thủng những cây cổ thụ hàng trăm năm.
Bỗng từ dưới chân núi có một người hớt hải chạy lên. Thế Lộc nói với Hoài Văn:
- Em tao là Nguyễn Lĩnh, đóng ở trại ngoài, về đây chắc có việc gì.
Nguyễn Lĩnh đã bước vào động. Lĩnh giống Thế Lộc như đúc, chỉ khác là cằm nhẵn không râu. Nguyễn Lĩnh nói:
- Giặc nó vào đấy!
Thế Lộc hỏi:
- Bao nhiêu thằng?
- Năm trăm, thằng nào cũng cưỡi ngựa.
- Ngựa thì ngựa. Nó vào thì đánh bỏ mẹ, cần gì.
Hoài Văn xoa tay sung sướng:
- Chúng nó đến nộp mạng cho chúng ta rồi. Lệnh cho mọi người không để cho một thằng giặc chạy thoát!
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện