Quỷ Tam Quốc - Dịch
Chương 10 : Quy tắc của Sĩ tộc
Người đăng: nammaket
Ngày đăng: 16:28 30-09-2025
.
Bắc Mang Sơn, còn gọi là Bình Phùng Sơn, Thái Bình Sơn, hay Giáp Sơn, chẳng cao lắm, chỉ chừng ba trăm thước, nhưng trải dài hàng trăm dặm từ đông sang tây, khí thế hùng vĩ, đất dày nước sâu, rừng cây rậm rạp. Nằm phía bắc thành Lạc Dương, bên bờ nam sông Hoàng Hà, nó là một nhánh của dãy Tần Lĩnh, thuộc mạch núi Hào Sơn.
Bắc Mang Sơn có sơn có thủy, sông Y, sông Lạc từ tây sang đông chảy qua thành Lạc Dương, khiến vùng đất này từ thời thượng cổ đã là nơi con cháu Viêm Hoàng định cư, sinh sôi nảy nở, phát triển không ngừng.
Dưới chân Bắc Mang Sơn, Thôi gia dựng một trang viên dựa vào núi.
Thời Hán, các thế gia sĩ tộc thường thích xây trang viên, xem đó như một cứ điểm quan trọng để truyền thừa gia tộc. Thôi gia cũng không ngoại lệ. Từ thời Tiền triều, khi Thôi Liệt làm đến chức Tư đồ, trang viên này đã bắt đầu được xây dựng. Đến nay, qua tay Thôi Nghị và Thôi Hậu, nó không ngừng được mở rộng, tu bổ, quy mô ngày càng đồ sộ.
Phỉ Tiềm ngắm nghía, ước chừng cả khu đất này rộng ít nhất bằng hai mươi sân bóng rổ. Phía sau trang viên còn thấy thợ xây ra vào tấp nập. Thời cổ đại, đất đai quả thật muốn chiếm bao nhiêu cũng được. Đặt ở thời hiện đại, không có trăm ức bạc e chẳng mua nổi mảnh đất lớn thế này.
Thôi Hậu mặt lộ vẻ tự hào, dẫn Phỉ Tiềm đi, giới thiệu cách bài trí của cả trang viên.
Nói là trang viên, nhưng thực chất giống một tòa pháo đài hơn.
Thôi Gia Trang, dựa vào một vách núi của Bắc Mang Sơn mà xây. Trên vách đá, họ đục khoét nhiều hang động, đóng kín bằng rào gỗ, có vệ sĩ canh gác, chắc dùng để cất giữ lương thực, vật dụng. Dưới chân núi, họ dựng tường trại dày, bao quanh một vùng đất rộng, dẫn dòng suối từ núi chảy qua trại, đồng thời đào một hào sâu ngoài tường. Hào này vừa để phòng ngự, vừa trữ nước.
Cả trại chia thành nhiều khu: khu nhà chính, khu dân cư thường, khu từ đường, khu xưởng thủ công, khu vườn rau, hoa viên, kho chứa, chợ phiên… tổng cộng hơn chục khu, mỗi nơi một chức năng, quy hoạch chặt chẽ, đầy đủ tiện nghi.
Qua cầu treo là cổng trại nhỏ hẹp, cửa vào trang viên chẳng kém gì cổng thành, dày dặn kiên cố, hai bên dựa vào tường chính. Bên trong cổng còn có một tháp canh mô phỏng lầu quan sát trên thành, lúc này có vài vệ sĩ đeo cung tên đang tuần tra trên đỉnh tháp.
Đường trong trại được cố ý xây ngoằn ngoèo, nhiều ngã rẽ, nhằm cản trở kẻ ngoài xâm nhập. Nếu không có Thôi Hậu dẫn đường, người lạ khó mà tìm được sân viện nhà chính.
Phỉ Tiềm trầm trồ, không tiếc lời khen ngợi.
Thôi Hậu vừa khiêm tốn xua tay, vừa hào hứng kể về quá trình xây dựng: nào là khởi công thế này, dùng bao nhiêu nhân công ra sao…
Quả thật xây dựng rất tốt. Tường hai bên đường nửa đá nửa đất vàng, vừa tiện lợi vừa vững chắc. Ngoài dòng suối chảy qua trại, còn có nhiều chum nước lớn phòng cháy, bởi nhà cửa thời Hán đa phần làm bằng gỗ: cột gỗ, cửa gỗ.
Khu sinh hoạt chính của Thôi gia gần như là sự kết hợp giữa một hoa viên và một pháo đài quân sự. Tường ngoài toàn bằng gạch xanh, rõ ràng vượt trội hơn nhà dân thường hai bên đường. Gạch khắc, đá chạm, gỗ trạm trổ đầy khắp, kỹ thuật tinh xảo, phong cách đa dạng. Bốn góc sân viện còn có lầu canh ba tầng, mái cong vút.
Xây một trang trại thế này chẳng dễ dàng, đủ thấy tài lực hùng hậu của Thôi gia.
Cơ cấu nông canh thời Hán cơ bản giống như trang viên Thôi gia. Bình thường, trang viên là nơi họp chợ, trao đổi hàng hóa. Những người có tài sản thường ở trong trại, còn tá điền hay người làm thuê thì dựng lều tranh ngoài trại. Khi có ngoại địch xâm phạm, tất cả đều tập hợp vào trại, dựa vào tường hào mà phòng thủ.
Một Thôi Gia Trang nho nhỏ, kỳ thực là hình ảnh thu nhỏ của thời đại phong kiến nông canh Trung Hoa, kéo dài qua nhiều triều đại. Chỉ vài triều như Hán, Đường, Minh còn đủ sức xuất binh ngăn địch ngoài cõi. Còn lại, đa phần chỉ biết co cụm phòng thủ, mặc cho du mục tộc như châu chấu hoành hành ngoài tường.
Vào Thôi gia, Thôi Hậu không dẫn Phỉ Tiềm đến sảnh phụ, mà đưa thẳng đến tiểu viện của mình, vào một sảnh nhỏ, phân ngôi chủ khách mà ngồi.
Phỉ Tiềm khóe miệng khẽ nhếch. Việc dùng tàng thư đổi lấy sự bảo hộ của gia chủ đã phát huy tác dụng.
Thời Hán rất trọng lễ nghi, đối đãi phải tương xứng.
Nơi nào tiếp khách, tương ứng với thân phận và cấp bậc người đó. Sảnh chính Thôi gia, Phỉ Tiềm chưa đủ tư cách bước vào. Dù có được mời, hắn cũng chẳng dám thất lễ mà đến.
Ban đầu, Phỉ Tiềm lo Thôi Hậu sẽ dẫn mình đến sảnh phụ. Sảnh phụ nghĩa là yến tiệc chính thức, Thôi Nghị sẽ xuất hiện. Khi ấy, Phỉ Tiềm phải trực diện Thôi Nghị. Có trưởng bối ở đó, nếu bị hỏi, theo lễ phải đứng dậy trả lời, vừa phiền phức về phép tắc, vừa rơi vào thế bị động, rất bất lợi.
Nay Thôi Hậu đưa Phỉ Tiềm đến sảnh nhỏ trong tiểu viện của mình, nghĩa là hôm nay hắn tiếp đãi với tư cách chủ nhân, còn trưởng bối Thôi Nghị sẽ không ra mặt. Yến tiệc chỉ còn là buổi gặp gỡ bạn bè thoải mái, không phải yến chính đầy lễ nghi.
Vốn dĩ Thôi gia định để Thôi Nghị ra mặt, vừa dựa vào thân phận trưởng bối, vừa là quan viên Tiền triều, dùng tiên lễ hậu binh, ép Phỉ Tiềm giao ra bí pháp chế tác lưu ly. Nhưng bất ngờ, họ nhận được thư của Phỉ Mẫn.
Thôi gia trước đó cho rằng Phỉ Tiềm chỉ là một nhánh phụ của Phỉ gia, chẳng được chủ gia để tâm, nên một kẻ vô quyền vô thế như vậy khó mà gây sóng gió. Nhưng trong thư, ngoài lời hàn huyên, Phỉ Mẫn đặc biệt cảm tạ Thôi gia đã mời và tiếp đãi Phỉ Tiềm, còn ngỏ ý sẽ mời Thôi gia đến làm khách.
Dù không nói rõ, bức thư của Phỉ Mẫn đã ngầm ám chỉ Phỉ Tiềm không phải kẻ vô danh tiểu tốt như Thôi gia nghĩ. Nếu ép Phỉ Tiềm nữa, tức là không nể mặt Phỉ Mẫn. Chuyện từ một cá nhân nhỏ bé bỗng thành vấn đề giữa hai nhà Phỉ và Thôi.
Chức Gián nghị đại phu của Phỉ Mẫn tuy không cao bằng Tam công, nhưng là quan đương nhiệm. Trong khi đó, quan lớn nhất Thôi gia, Tư đồ Thôi Liệt, chỉ là quan Tiền triều, lại đã qua đời, nên chẳng có bao nhiêu lợi thế.
Cân nhắc thiệt hơn, Thôi Nghị quyết không ra mặt, để Thôi Hậu tiếp đãi, xem như một buổi mời bạn bè thuần túy.
Trong sảnh nhỏ tiểu viện, không cần nghiêm trang như tiệc chính. Thôi Hậu ngồi xuống, tháo mũ quan đặt sang một bên, ra hiệu cho Phỉ Tiềm.
Thú vị thật, tiệc miễn mũ sao? Phỉ Tiềm mỉm cười, cũng tháo mũ, thầm nghĩ: Người xưa cũng thật biết chơi. Một hành động miễn mũ như vậy, ngụ ý hôm nay chỉ ăn uống vui vẻ, chẳng bàn chuyện khác.
*/một hình thức yến tiệc trong đó các khách khứa được phép tháo mũ quan - biểu tượng của lễ nghi và địa vị – để thể hiện sự gần gũi, không câu nệ lễ tiết. Đây thường là buổi tiệc giữa bạn bè thân thiết hoặc những người có mối quan hệ ngang hàng, không phải yến chính thức với đầy đủ nghi thức
Quả nhiên, khi mâm khô, bánh ngọt, rượu trái cây, thịt bò thịt dê dọn lên, Thôi Hậu tuyệt không nhắc đến chính sự, chỉ kể chuyện phong hoa tuyết nguyệt, tin đồn phố phường để góp vui.
Thôi gia quả không đơn giản. Lợi nhuận từ lưu ly lớn như thế, nhưng họ chẳng bị lợi ích làm mờ mắt, làm ra chuyện liều lĩnh. Họ biết buông bỏ đúng lúc, chẳng lộ chút khó chịu hay cảm xúc tiêu cực nào. Người ngoài nhìn vào, thật sự tưởng họ thành tâm đối đãi bằng hữu.
Tiệc rượu kéo dài từ giữa trưa đến hoàng hôn, no say thỏa nguyện.
Rượu thời Hán giống như rượu gạo thời sau, ngọt nhẹ, hơi chua, độ cồn thấp, nhưng uống nhiều vẫn say. May thay, không biết do cơ thể Phỉ Tiềm vốn giỏi giải rượu, hay nhờ tài uống rượu tôi luyện từ những ngày làm việc văn phòng thời hiện đại, nên dù mặt đỏ bừng, lưỡi líu lo, bước đi loạng choạng, thực chất hơn nửa là Phỉ Tiềm giả vờ.
Tiệc gần tàn, Thôi Hậu gọi tỳ nữ, chuẩn bị đưa Phỉ Tiềm đến phòng khách nghỉ ngơi.
Thời Hán, những yến tiệc tử tế thường kéo dài từ trưa đến tối, rồi khách nghỉ lại nhà chủ. Như vậy mới gọi là trọn vẹn. Khách mà vội về trong đêm, chẳng khác gì bỏ tiệc giữa chừng, khiến chủ nhà mất mặt.
Phỉ Tiềm bước đi xiêu vẹo, được tỳ nữ dìu đến phòng khách. Đi được vài bước, hắn lại loạng choạng quay lại, lôi từ trong ngực ra một mảnh lụa, nhét vào tay Thôi Hậu, líu lưỡi nói: “Huynh đối đãi tiểu đệ… chẳng, chẳng hề bạc. Tiểu đệ… không lâu nữa sẽ rời… rời Lạc Dương. Mảnh lụa này… là tiểu đệ tình cờ có được… đặc, đặc biệt tặng huynh làm… làm vật chia tay…”
Chưa “chia” xong, Phỉ Tiềm đã ngã vật xuống đất, ngáy khò khò.
Thôi Hậu cố nén men say, mở to mắt, mở mảnh lụa ra xem. Tức thì, men rượu tan biến tám chín phần, hắn kinh ngạc gọi Phỉ Tiềm mấy tiếng. Thấy Phỉ Tiềm say khướt, gọi mãi chẳng tỉnh, hắn đành dặn dò tỳ nữ chăm sóc kỹ lưỡng, rồi cầm mảnh lụa, không kịp thay y phục, vội đi bái kiến Thôi Nghị.
Thôi Nghị thường có thói quen tĩnh tọa lúc hoàng hôn. Bị Thôi Hậu quấy rầy, lại thấy hắn đầy mùi rượu, áo quần loang lổ vết rượu, tức giận muốn dạy dỗ.
“Phụ thân xin chậm tay! Mời phụ thân xem qua vật này trước!”
Thôi Nghị nhận mảnh lụa, liếc qua, cơn buồn ngủ tan biến, nhíu mày hỏi: “Ngươi lấy vật này thế nào?” Thằng nhóc này, chẳng lẽ nhân lúc Phỉ Tiềm say mà trộm sao?
Thôi Hậu vội kể lại sự việc.
“Đứa nhỏ này, không đơn giản!” Thôi Nghị vuốt râu, “Nếu bí pháp này là thật, chà chà, Thôi gia ta e là lép vế rồi… Thôi được, Thôi gia nhận ân tình này!”
“Ta sẽ sao chép một bản. Ngươi mau gọi thợ giỏi trong nhà, theo bí pháp này thử luyện một lò, xem hiệu quả ra sao.” Vật quý thế này, bản gốc tất phải cất kỹ. Thôi Nghị dứt khoát ra lệnh, đêm nay bắt tay vào làm, chẳng màng ngủ nghỉ.
Chẳng nói đến sự bận rộn của Thôi Nghị và Thôi Hậu, lúc này Phỉ Tiềm được hai tỳ nữ dìu đi nghỉ, vừa loạng choạng bước, khóe miệng vừa khẽ nhếch. Cùng một vật, đưa ra ở hoàn cảnh khác nhau, hiệu quả cũng khác biệt.
Nếu bị ép buộc mà giao bí pháp, chẳng những không được hồi đáp, còn bị người khinh bỉ. Quy tắc của sĩ tộc thế gia là mạnh được yếu thua, chẳng có chút nhân tình.
Nay Phỉ Tiềm, nhờ sự che chở của chủ gia Phỉ Mẫn, tạm thời có được vị thế ngang hàng với Thôi Hậu. Dù vị thế này chưa biết kéo dài bao lâu, nhưng trong hoàn cảnh này mà giao ra bí pháp, nó trở thành lễ kết giao. Thôi gia phải tuân theo quy tắc qua lại của sĩ tộc, nếu không sẽ mất danh tiếng trong giới.
Sĩ tộc thế gia, vừa mâu thuẫn vừa thống nhất như thế.
Đã quyết rời Lạc Dương, mọi việc cần sạch sẽ dứt khoát. Huống chi, bí pháp Phỉ Tiềm đưa cho Thôi Hậu cũng chỉ nhỉnh hơn cách làm lưu ly thời Hán một chút, chủ yếu là dùng chì tinh khiết hơn, khiến lưu ly sáng bóng, trong suốt hơn.
Phỉ Tiềm thậm chí còn nghĩ, nếu Thôi gia tiếp tục nghiên cứu sâu, tìm ra công thức tốt hơn, đó cũng là bản lĩnh của họ. Men say dần bốc lên, Phỉ Tiềm vừa nghĩ vừa để tỳ nữ dìu đi xiêu vẹo đến phòng khách. Bỗng một tia sáng đỏ rực từ chân trời chiếu tới, Phỉ Tiềm khó chịu chớp mắt, mí mắt nửa khép nhìn ra ngoài.
Lúc này, tàn dương đỏ như máu, nhuộm cả thành Lạc Dương một màu huyết sắc.
.
Bình luận truyện